pnvnonline@phunuvietnam.vn
Cán bộ nữ cơ sở làm chủ công nghệ góp phần vào sự phát triển bền vững của cộng đồng

Ảnh minh họa

Thạc sĩ Lê Thị Vui, Viện Công nghệ thông tin - Học viện Phụ nữ Việt Nam
- Thưa bà, điều gì khiến bà và nhóm nghiên cứu lựa chọn chủ đề "phát triển năng lực CNTT cho cán bộ nữ cơ sở ở Sóc Trăng - nay là TP Cần Thơ" cho đề tài của mình?
Chúng tôi xuất phát từ nhận thức rằng, trong thời đại công nghệ số, việc phát triển năng lực ứng dụng CNTT cho cán bộ cơ sở nữ ở vùng DTTS không chỉ cấp bách mà còn đặc biệt quan trọng. Đây là bước tiến vững chắc để nâng cao bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị và là chìa khóa mở ra cánh cửa cho sự phát triển toàn diện của cộng đồng.
Sóc Trăng - nay là TP Cần Thơ là tỉnh có đông đồng bào DTTS, tỷ lệ người DTTS chiếm tới 35,76%, trong đó nhiều nhất là đồng bào dân tộc Khmer. Toàn tỉnh có 63 xã, phường, thị trấn thuộc vùng đồng bào DTTS và 128 ấp đặc biệt khó khăn. Đặc điểm này vừa tạo nên sự đa dạng văn hóa, vừa đặt ra nhiều thách thức cho công tác quản lý, điều hành và phát triển kinh tế - xã hội.
Tỷ lệ cán bộ nữ trong hệ thống chính trị các cấp ở TP Cần Thơ chiếm trên 50% - đây là một lợi thế lớn. Tuy nhiên, khảo sát của chúng tôi cho thấy vẫn còn khoảng cách rõ rệt giữa số lượng và mức độ tham gia thực chất vào các vị trí lãnh đạo. Chẳng hạn, phụ nữ chỉ chiếm khoảng 25% trong tổng số đại biểu HĐND các cấp, và ở cấp huyện, tỷ lệ nữ lãnh đạo chủ chốt tại UBND chỉ đạt 8,6%.
Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số đang tác động mạnh mẽ, việc trang bị kỹ năng CNTT cho đội ngũ cán bộ nữ cơ sở sẽ giúp họ tự tin hơn, tiếp cận cơ hội mới và đóng góp tích cực vào phát triển cộng đồng. Đó là lý do chúng tôi chọn chủ đề này.
- Bà có thể chia sẻ một số kết quả khảo sát nổi bật về thực trạng năng lực CNTT của cán bộ nữ cơ sở tại TP Cần Thơ?
Khảo sát của chúng tôi tập trung vào 60 cán bộ nữ cơ sở thuộc vùng DTTS ở Cần Thơ. Về độ tuổi, nhóm từ 30 đến 40 tuổi chiếm 53,33%, nhóm từ 40 đến 50 tuổi chiếm 26,67%, nhóm trẻ 18-30 tuổi là 18,33%. Đây là tín hiệu tích cực vì lực lượng cán bộ đang có xu hướng trẻ hóa, có khả năng tiếp thu nhanh kiến thức mới.
Về thời gian sử dụng thiết bị công nghệ, trung bình mỗi người có 5,1 năm kinh nghiệm. Đáng chú ý, 57/60 người mong muốn được học về "Ứng dụng thiết bị di động trong quản lý công việc" ngay trong năm 2024; 56/60 người muốn học "Ứng dụng thiết bị di động trên mạng xã hội". Điều này cho thấy nhu cầu rất lớn về kỹ năng công nghệ gắn với công việc hàng ngày.
Hầu hết cán bộ Hội LHPN các cấp đã sử dụng thành thạo các phần mềm văn phòng (Word, Excel, PowerPoint), phần mềm kế toán, văn thư, quản lý hội viên… Tuy nhiên, ở cấp cơ sở vẫn còn hạn chế về thiết bị (máy tính, kết nối mạng), nhân sự thường xuyên biến động, và một số chị em chưa quen với mạng xã hội, dẫn đến việc chia sẻ thông tin, truyền thông còn hạn chế.
Chúng tôi cũng nhận thấy sự chênh lệch lớn về cơ hội đào tạo giữa các cấp. Trong giai đoạn 2016-2020, toàn tỉnh có hơn 70 nghìn lượt cán bộ, công chức, viên chức được đào tạo nâng cao trình độ, nhưng tỷ lệ tham gia các khóa học về CNTT của cán bộ nữ cơ sở chưa cao.
- Theo bà, những khó khăn lớn nhất mà cán bộ nữ cơ sở gặp phải khi tiếp cận và ứng dụng CNTT là gì?
Có thể chia thành ba nhóm khó khăn chính.
Thứ nhất là hạ tầng và thiết bị. Ở nhiều xã, ấp, điều kiện kinh phí hạn chế khiến máy tính, đường truyền Internet chưa được đảm bảo. Thậm chí có nơi vẫn dùng máy cũ, cấu hình thấp, gây khó khăn khi cài đặt hoặc sử dụng phần mềm mới.
Thứ hai là nguồn nhân lực. Lực lượng cán bộ Hội cơ sở vừa thiếu, vừa thay đổi thường xuyên. Điều này ảnh hưởng tới tính liên tục của quá trình áp dụng CNTT. Ngoài ra, không phải ai cũng được đào tạo bài bản về công nghệ; nhiều người còn e ngại khi tiếp xúc với công cụ mới.
Thứ ba là tâm lý và kỹ năng mềm. Một số chị em vẫn "an phận" với công việc hiện tại, chưa sẵn sàng đảm nhận các nhiệm vụ mới đòi hỏi sử dụng công nghệ. Mặt khác, kỹ năng an toàn thông tin và bảo mật dữ liệu cá nhân chưa được trang bị đầy đủ, dẫn đến rủi ro khi làm việc trực tuyến.

Tập huấn nâng cao năng lực CNTT cho cán bộ phụ nữ huyện, cơ sở ở Sóc Trăng (nay là TP Cần Thơ) - Ảnh: Sớm Mai
Bên cạnh đó, cần nói đến thách thức về nhận thức và nhu cầu học tập. Khảo sát cho thấy nhiều người mong muốn học về các nội dung gắn liền thực tiễn (như sử dụng điện thoại để quản lý công việc, mạng xã hội, dữ liệu đám mây), nhưng chưa có kế hoạch học tập dài hạn. Điều này đòi hỏi các chương trình đào tạo phải linh hoạt, đáp ứng đúng nhu cầu và thời điểm.
- Theo bà cần có những giải pháp nào để nâng cao năng lực ứng dụng CNTT cho cán bộ nữ cơ sở vùng DTTS?
Chúng tôi đưa ra một số nhóm giải pháp:
Một là, xây dựng nền tảng CNTT vững chắc. Điều này bao gồm phát triển các ứng dụng và website chuyên dụng để cán bộ nữ dễ dàng truy cập thông tin, quản lý công việc; tích hợp công nghệ di động để tiếp cận thông tin từ mọi nơi.
Hai là, tổ chức đào tạo chuyên sâu, từ cơ bản đến nâng cao. Nội dung cần sát thực tiễn, tập trung vào kỹ năng sử dụng thiết bị di động, mạng xã hội, dữ liệu đám mây, và các phần mềm phục vụ công việc Hội. Cùng với đó là đào tạo về an toàn thông tin và quyền riêng tư, giúp cán bộ nữ bảo vệ dữ liệu cá nhân và thông tin tổ chức.
Ba là, tạo môi trường hỗ trợ và khích lệ. Có thể tổ chức các diễn đàn trực tuyến, nhóm chia sẻ kinh nghiệm, sự kiện kết nối thường niên để cán bộ nữ học hỏi lẫn nhau. Việc hình thành một mạng lưới hỗ trợ sẽ giúp họ tự tin hơn khi áp dụng công nghệ vào hoạt động chính trị cơ sở.
Bốn là, khuyến khích sáng tạo và đổi mới. Các chương trình, dự án nên tạo điều kiện cho cán bộ nữ đề xuất và thử nghiệm giải pháp công nghệ nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể của cộng đồng. Điều này vừa phát huy trí tuệ tập thể, vừa gắn công nghệ với nhu cầu thực tế.
Cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh rằng, phát triển năng lực CNTT không chỉ là cung cấp kỹ năng sử dụng công cụ, mà còn là thay đổi tư duy làm việc và cách tiếp cận thông tin. Khi cán bộ nữ cơ sở làm chủ công nghệ, họ sẽ có thêm tiếng nói, thêm cơ hội và góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của cộng đồng, nhất là ở vùng DTTS.
- Trân trọng cảm ơn bà!