Chăm lo sức khỏe phụ nữ là đầu tư phát triển bền vững
Bác sĩ Nguyễn Thu Hương (bên trái) trong 1 ca sinh thiết vôi hóa vú
Đầu tư cho sức khỏe phụ nữ không chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân người phụ nữ mà còn góp phần xây dựng gia đình khỏe mạnh, xã hội ổn định. Đây chính là một khoản đầu tư chiến lược cho sự phát triển bền vững.
"Gánh nặng kép" của phụ nữ
Ung thư vú, ung thư cổ tử cung, trầm cảm sau sinh và nhiều vấn đề sức khỏe đặc thù của phụ nữ đang có xu hướng gia tăng, trở thành mối lo ngại không chỉ với mỗi cá nhân mà với cả cộng đồng.
TS.BS Nguyễn Thu Hương, Phó Chủ tịch Hội Hình ảnh Vú Việt Nam, cho rằng, sức khỏe phụ nữ Việt Nam đang đứng trước "gánh nặng kép", vừa đối mặt với các bệnh mạn tính, ung thư tăng, vừa chịu áp lực sức khỏe tinh thần do thay đổi lối sống, công việc và vai trò chăm sóc gia đình.
"Ung thư vú đang có xu hướng gia tăng và đáng lo nhất là tình trạng phát hiện muộn. Nhiều chị em chỉ đi khám khi đã có khối u rõ, đau, tiết dịch núm vú hoặc biến dạng vú. Trong khi đó, nếu phát hiện sớm thì cơ hội điều trị khỏi và bảo tồn rất cao", BS Nguyễn Thu Hương nêu thực trạng.
BS Nguyễn Thu Hương cũng phân tích thêm, ung thư cổ tử cung là bệnh cũng có thể phòng ngừa hiệu quả nhờ tiêm vaccine HPV và tầm soát định kỳ (Pap/HPV test). Tuy nhiên, rào cản lớn vẫn là tâm lý e ngại khám phụ khoa, thiếu thông tin, và chưa hình thành thói quen tầm soát. Bên cạnh đó, trầm cảm sau sinh và các rối loạn lo âu quanh thai kỳ là vấn đề "ẩn". Nhiều phụ nữ bị gán là "yếu đuối, nghĩ nhiều", trong khi đây là một tình trạng y khoa cần được sàng lọc và can thiệp sớm để bảo vệ mẹ, em bé và cả gia đình.
"Phụ nữ vừa gánh áp lực công việc, vừa gánh vai trò chăm sóc gia đình, con cái. Căng thẳng kéo dài, ngủ kém, ít vận động, ăn uống thất thường… làm tăng nguy cơ bệnh lý và rối loạn tâm lý. Không chỉ vậy, nhiều phụ nữ có xu hướng chịu đựng và đặt ưu tiên của người khác lên trước sức khỏe của bản thân"- TS.BS Thu Hương chia sẻ.
“Đầu tư sớm cho sức khỏe phụ nữ mang lại lợi ích lâu dài cho gia đình và xã hội. Việc tầm soát, phòng ngừa giúp phát hiện sớm các bệnh lý nguy hiểm như ung thư vú, ung thư cổ tử cung, qua đó giảm tử vong và gánh nặng điều trị muộn. Khi người phụ nữ, đặc biệt là người mẹ, khỏe mạnh về thể chất và tinh thần, gia đình vận hành ổn định hơn, trẻ em được chăm sóc tốt và phát triển toàn diện hơn. Ở tầm rộng hơn, đầu tư cho sức khỏe phụ nữ còn góp phần giảm chi phí y tế, nâng cao năng suất lao động và chất lượng nguồn nhân lực, tạo nền tảng cho phát triển bền vững”.
TS.BS. Nguyễn Thu Hương, Phó Chủ tịch Hội Hình ảnh Vú Việt Nam
Để bảo vệ sức khỏe phụ nữ một cách căn cơ, chính sách y tế cần chuyển trọng tâm từ "chữa bệnh" sang phòng ngừa, tầm soát và chăm sóc liên tục. Theo TS.BS Thu Hương, trước hết, cần chuẩn hóa và mở rộng các chương trình tầm soát ung thư vú, ung thư cổ tử cung theo nhóm tuổi và nguy cơ, có cơ chế nhắc lịch định kỳ, kết nối chặt chẽ giữa tuyến cơ sở và tuyến chuyên sâu, đồng thời giảm rào cản chi phí thông qua các gói tầm soát phù hợp và bảo hiểm y tế.
Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh tiêm vaccine HPV gắn với giáo dục sức khỏe sinh sản là giải pháp quan trọng nhằm phòng bệnh từ sớm. Sức khỏe tâm thần quanh thai kỳ cũng cần được đưa vào quy trình chăm sóc chuẩn, với sàng lọc trầm cảm, lo âu và hệ thống tư vấn, chuyển tuyến rõ ràng. Cùng với đó là truyền thông sức khỏe không phán xét, chống kỳ thị và tin giả. Song song với đầu tư nâng cao chất lượng chẩn đoán sớm ngay từ tuyến cơ sở.
Đầu tư cho sức khoẻ phụ nữ
Các chuyên gia cũng nhìn nhận, đầu tư cho sức khỏe phụ nữ chính là đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên chuyên trách, Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, khẳng định: Đầu tư cho sức khỏe phụ nữ không chỉ là chính sách xã hội, mà là chiến lược phát triển quốc gia. Bởi phụ nữ không chỉ là một nửa dân số, mà còn là lực lượng lao động quan trọng, là người giữ vai trò trung tâm trong chăm sóc gia đình, nuôi dưỡng và giáo dục thế hệ tương lai. Đồng thời, phụ nữ ngày càng giữ nhiều vị trí then chốt trong đời sống kinh tế - xã hội.
Khi sức khỏe phụ nữ được bảo đảm, xã hội có một lực lượng lao động bền bỉ hơn, sáng tạo hơn, có khả năng thích ứng tốt hơn với những biến động của thị trường lao động trong bối cảnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và già hóa dân số. Ngược lại, nếu phụ nữ phải sống chung với bệnh tật, suy dinh dưỡng, thiếu chăm sóc y tế, thì cái giá mà xã hội phải trả không chỉ nằm ở chi phí khám chữa bệnh, mà còn ở năng suất lao động suy giảm, gánh nặng an sinh gia tăng và những tổn thất âm thầm và dai dẳng cho tương lai.
“Khi người mẹ thường xuyên đau yếu, căng thẳng hoặc trầm cảm, trẻ em sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp về dinh dưỡng, tâm lý và sự phát triển cảm xúc, học tập. Nhiều nghiên cứu cho thấy sức khỏe tinh thần của mẹ gắn chặt với sự hình thành nhân cách của trẻ. Ở cấp độ cộng đồng, sự thờ ơ với sức khỏe phụ nữ khiến các bệnh có thể phòng ngừa trở nên nặng và mãn tính, làm gia tăng chi phí y tế và gánh nặng an sinh xã hội trong tương lai”.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội
Quan trọng hơn, đầu tư cho sức khỏe phụ nữ là đầu tư cho chất lượng dân số. Một người mẹ khỏe mạnh sẽ sinh ra và nuôi dưỡng những đứa trẻ khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần. Đây chính là nền móng sâu xa nhất của nguồn nhân lực quốc gia trong dài hạn. Vì vậy, nếu coi phát triển bền vững là mục tiêu chiến lược, thì sức khỏe phụ nữ phải được đặt ở vị trí trung tâm của mọi chính sách phát triển.
Theo PGS.TS Bùi Hoài Sơn, "điểm nghẽn" lớn nhất khiến các chương trình chăm sóc sức khỏe phụ nữ chưa được triển khai đồng bộ và bền vững là do tư duy tiếp cận còn thiên về ngắn hạn và mang tính phong trào. Nhiều chương trình chăm sóc sức khỏe phụ nữ vẫn dừng ở các chiến dịch, các đợt khám lưu động, tuy rất cần thiết nhưng chưa đủ. Thiếu một tầm nhìn dài hạn, thiếu cơ chế theo dõi, đánh giá liên tục khiến hiệu quả khó bền vững.
Sự phân mảnh trong chính sách và nguồn lực. Sức khỏe phụ nữ liên quan đồng thời đến y tế, lao động - việc làm, giáo dục, an sinh xã hội, bình đẳng giới… nhưng sự phối hợp giữa các ngành, các cấp vẫn chưa thật sự nhịp nhàng. Ở nhiều nơi, chính sách có nhưng thiếu ngân sách; có ngân sách nhưng thiếu nhân lực; có mô hình tốt nhưng khó nhân rộng.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn cũng nhắc đến vấn đề rào cản văn hóa và nhận thức xã hội. Nhiều phụ nữ vẫn đặt sức khỏe của mình sau gia đình, sau chồng con và công việc. Vấn đề sức khỏe đặc thù của phụ nữ, nhất là sức khỏe sinh sản và sức khỏe tinh thần, còn bị xem là "chuyện riêng", "chuyện tế nhị", khiến việc tiếp cận dịch vụ y tế bị chậm trễ hoặc bỏ lỡ thời điểm vàng để can thiệp. Để chuyển từ tư duy "chăm sóc cá nhân" sang "đầu tư xã hội", cần sự vào cuộc đồng bộ của Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và chính mỗi gia đình, mỗi người phụ nữ.