"Chìa khóa" giúp phụ nữ dân tộc thiểu số phát triển sinh kế

Thành lập nhóm phụ nữ tham gia mô hình “Ống tiết kiệm 3 sạch” tại xã Thanh Thủy, tỉnh Tuyên Quang
Năm 2023, chị Lò Thị Hạnh (ở bản Hua Sẳn, xã Bản Bo, tỉnh Lai Châu) đã vay 3 triệu đồng từ Tổ tiết kiệm trong Chi hội phụ nữ để mua lợn giống về nuôi. Với sự ham học hỏi, cần cù và mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi, đàn lợn của chị phát triển tốt và xuất chuồng. Thu được chút vốn, chị Hạnh tiếp tục đầu tư xây dựng hệ thống chuồng trại và phát triển mô hình nuôi lợn giống.
"Vì tôi không có tài sản thế chấp nên khó vay mượn được ở đâu. Được sự hỗ trợ của Chi hội phụ nữ, tôi đã có vốn để phát triển kinh tế gia đình, cải thiện cuộc sống, có điều kiện cho con cái học hành đầy đủ", chị Hạnh tâm sự.
Tại nhiều thôn, bản vùng cao, năng lực tiếp cận dịch vụ tài chính chính thức của người dân còn hạn chế, chưa đáp ứng được điều kiện của các tổ chức cung ứng dịch vụ.
Trước thực trạng này, Trung ương Hội LHPN Việt Nam trong gần 20 năm qua đã triển khai hàng loạt mô hình tiết kiệm tại cộng đồng để giúp phụ nữ phát triển sinh kế, bao gồm: Tổ tiết kiệm thuộc các chương trình, dự án tín dụng của Hội và Ngân hàng Chính sách xã hội; các tổ góp vốn quay vòng; tổ phụ nữ tiết kiệm do thành viên trong tổ tự quản thông qua hợp tác của Hội với các tổ chức phi chính phủ như CARE, PLAN; tổ tiết kiệm tại Chi hội phụ nữ. Với một khoản tiết kiệm nhỏ định kỳ, phụ nữ trong các nhóm tích lũy vốn để xoay vòng cho nhau vay phát triển sinh kế.
Với ưu điểm thủ tục đơn giản, không cần tài sản thế chấp, linh hoạt theo hoàn cảnh từng nhóm, phù hợp với trình độ quản lý của người dân, mô hình này giúp phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ dân tộc thiểu số, tự tin làm kinh tế, từng bước thoát nghèo.
Theo khảo sát của tổ chức CARE Việt Nam (tổ chức toàn cầu hướng đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo), trong 11.907 giao dịch hỗ trợ vốn của các thành viên trong 708 nhóm Tương trợ vốn, 76% các khoản hỗ trợ vốn là được dùng cho mục đích đầu tư, sản xuất (chăn nuôi, trồng trọt quy mô nhỏ, đầu tư, mua sắm vật tư, tư liệu sản xuất…).
Tại các địa phương, việc sử dụng vốn của chị em qua các nhóm tiết kiệm chủ yếu phục vụ phát triển sinh kế, với quy mô vốn tương đối nhỏ (5-7 triệu đồng/khoản).
Theo ông Đặng Đình Ngọc, cán bộ tổ chức CARE Việt Nam, mô hình tiết kiệm và tín dụng tự quản đã đặt nền móng cho hội viên, phụ nữ dân tộc thiểu số và miền núi tiếp cận tài chính toàn diện trong dài hạn.
Tuy nhiên, ngoài hoạt động uỷ thác cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội thông qua Hội LHPN Việt Nam, các mô hình này vẫn chủ yếu nằm ngoài hệ thống tài chính chính thức. Dù hợp pháp theo Bộ luật Dân sự nhưng các nhóm tiết kiệm vẫn ở vị trí trung gian, chưa thể phát triển quy mô lớn hơn hoặc tiếp cận nguồn vốn lớn hơn để mở rộng sản xuất.
Ông Đặng Đình Ngọc kiến nghị Trung ương Hội LHPN Việt Nam cần nghiên cứu, cải tiến mô hình hoạt động của các tổ, nhóm trên cơ sở các văn bản pháp lý hiện tại nhằm thúc đẩy sự lớn mạnh của các mô hình tiết kiệm, tích luỹ vốn hiện có song song với nâng cao năng lực để các tổ, nhóm bước vào giai đoạn bứt phá.
Bên cạnh đó, cần phân loại các nhóm theo năng lực tiếp cận (thường gắn với quy mô tiết kiệm) để có chiến lược hỗ trợ phù hợp, trong đó chú trọng kết nối các nhóm có năng lực tốt với hệ thống tài chính chính thức để họ có thể bước sang giai đoạn phát triển mới theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW về thúc đẩy kinh tế tư nhân và Nghị quyết 20-NQ/TW về phát triển kinh tế tập thể; kết nối các giải pháp phát triển sinh kế hiện tại của Dự án 8 với hoạt động của các tổ, nhóm tiết kiệm nhằm lồng ghép các giải pháp tăng cường năng lực đã được thiết kế trong các giải pháp sinh kế.
Để làm được điều đó, Hội LHPN Việt Nam cần có sự chung tay từ nhiều phía như: Cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị cung cấp dịch vụ tài chính, đặc biệt là các địa phương, nơi mà các mô hình này đang hoạt động hiệu quả.