pnvnonline@phunuvietnam.vn
Ngời sáng phẩm chất, tài năng của những nữ nhà báo - chiến sĩ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước

Từ trái sang phải: Hoàng Thị Tuyết Trinh, Cao Tân Hòa, Lê Thị Kim Thoa, Triệu Thị Thùy
Những nhà báo nữ ra trận trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến từ nhiều vùng miền của đất nước. Họ khá đa dạng về tuổi tác, kinh nghiệm tác nghiệp, về vị trí công tác trước khi rời hậu phương ra tiền tuyến. Tuy nhiên, dù xuất phát điểm là gì, hoàn cảnh riêng tư ra sao, dù tính cách mỗi người một khác nhưng họ đều mang trong mình những phẩm chất cao quý, đáng trân trọng của những nhà báo - chiến sĩ.
"Nếu con không về, con đã trả nợ non sông"

Nhà báo - liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý
Nhà văn, nhà báo Dương Thị Xuân Quý xung phong lên đường ra mặt trận trong khi chồng chị - nhà thơ Bùi Minh Quốc đã ra chiến trường trước đó 1 năm và con gái họ, Bùi Dương Hương Ly, lúc đó mới 16 tháng tuổi. Chị đã vĩnh viễn nằm lại trên "đất lành Duy Xuyên" - mặt trận Quảng Đà, năm 1969, khi bút lực đang ở giai đoạn dồi dào nhất và tuổi đời mới vừa 28.
Nhà thơ Bùi Minh Quốc trong "Bài thơ về hạnh phúc" đã có những câu thơ tuyệt đẹp về cái chết của vợ mình: "Em ra đi chẳng để lại gì/Ngoài ánh mắt cười lấp lánh sau hàng mi/Và anh biết khi bất thần trúng đạn/Em đã ra đi với mắt cười thanh thản/Bởi được góp mình làm ánh sáng ban mai/Bởi được biết mình có mặt ở tương lai…". Ông đã miêu tả một cách chân thực và cảm động động cơ ra trận của nhà báo liệt sĩ, người đã ngã xuống cho lý tưởng cách mạng sáng ngời và niềm tin mãnh liệt vào ngày mai của dân tộc.

Nhà báo - liệt sĩ Phạm Thị Ngọc Huệ
Nhà báo, liệt sĩ Phạm Thị Ngọc Huệ sinh năm 1946 - là một cô gái thông minh, học giỏi, hát hay và tràn đầy nhiệt huyết tuổi trẻ. Gác lại giấc mơ giảng đường đại học, chị đã tình nguyện đến chiến trường, đơn vị chiến đấu đầu tiên là Binh trạm 36, Đại đội Thanh niên xung phong Ninh Bình, làm nhiệm vụ thông tuyến đường chiến lược 20 Quyết Thắng, tiếp đó là Ban tuyên huấn 559 Bộ đội Trường Sơn. Tại đây, chị làm cho Báo Trường Sơn - cơ quan tuyên truyền của Bộ Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn. "Mẹ ơi, lúc con về là ngày vui chiến thắng/Nếu con không về, con đã trả nợ non sông" - những vần thơ gửi mẹ cho thấy chị đã xác định rõ mục tiêu, lý tưởng sống của mình.
Ngày 20/12/1968, Phạm Thị Ngọc Huệ đã anh dũng hy sinh khi cùng đơn vị vượt trọng điểm Ka Tốc. Di vật còn lại của chị Huệ là cuốn sổ ghi chép các khoản tiếp nhận quân nhu, trang phục đoàn công tác và tập bản thảo viết về điển hình trạm sửa chữa xe máy Trường Sơn. Tất cả đều nhuốm máu, nhiều trang không đọc được… Giấc mơ về với mẹ, giấc mơ làm báo của chị đã mãi mãi dừng lại ở tuổi 22 tràn đầy sức sống.
Nhà báo Cao Tân Hòa cùng lớp phóng viên GP10 TTXVN rời miền Bắc ra trận với cây bút, quyển sổ và máy ảnh, "đối mặt với sự hy sinh, gian khổ với lòng rất đỗi tự hào". Đó cũng là lý do khi bị thương, có nguy cơ phải quay về Hà Nội, bà đã không chấp nhận điều đó. Khát vọng lên đường thôi thúc, bà đã xin lãnh đạo, quyết liệt xin trình bày nguyện vọng tiếp tục được ra chiến trường. May mắn, lời thỉnh cầu của Cao Tân Hòa đã được chấp thuận.
Đối với phóng viên chiến trường, áp lực sống và tác nghiệp trong điều kiện ác liệt là điều không thể tránh khỏi. Áp lực bom rơi đạn nổ, áp lực vì thiếu thốn đủ đường về vật chất đã đành rồi cả những phút yếu lòng rất phụ nữ.
Nhà báo Lệ Thu trong cuốn nhật ký chiến trường đã viết rằng, là đảng viên, nên chị sẵn sàng chấp hành mệnh lệnh, đi vào nơi gian khổ làm nhiệm vụ. Nhưng sau tất cả, chị vẫn là một phụ nữ, một người mẹ. "Một phút lòng tôi yếu đuối, tôi khóc và nghĩ rằng rất có thể tôi sẽ hy sinh trong chuyến đi phía trước này. Trong đời hình như chưa bao giờ mình sợ chết. Nhưng giờ này, tôi bỗng nghĩ đến con, bởi nếu tôi chết thì con tôi sẽ ra sao?".

Nhà báo Lệ Thu khi tác nghiệp tại chiến trường
Nhưng lớn hơn tất cả là áp lực công việc, áp lực xử lý khối lượng thông tin, tư liệu đổ về dồn dập để cho ra những tác phẩm hay nhất, cảm động nhất, xuất sắc nhất.
Ông Đoàn Tử Diễn, nguyên phóng viên GP10 của Thông tấn xã Giải phóng, nguyên Tổng Biên tập Nhà xuất bản Thông tấn, đã miêu tả cụ thể những khó khăn như vậy của các đồng nghiệp nữ: "Về tới nơi là họ chong lên ngọn đèn chỉ bằng hạt đỗ, đêm đêm viết bài, điện ra Tổng xã. Những vùng đất nóng bỏng vừa đi qua. Những con người cùng được sống: Cán bộ xã ấp, du kích, những cơ sở nội tuyến... bình dị thế từ việc làm, từ lời nói mà sao không viết nổi. Viết rồi xóa, xóa rồi lại viết nữa..". Ông cũng viết: "Trên báo chí người ta hay nói về những người nổi tiếng, những chiến công mà ít người có thể làm được. Họ là những nhân vật điển hình, những tấm gương. Nhưng trong đời, tôi đã từng biết những con người vô cùng bình thường, những danh hiệu chiến sỹ thi đua, anh hùng… còn xa vời đối với họ. Nhưng những con người thầm lặng, ngỡ là bình thường như giọt nước hòa lẫn trong vô cùng sông bể, thực ra không thể thiếu được với cuộc đời…".
Tài năng: Sự ghi nhận và biết ơn
Có một điều hiển nhiên là, khác với các nhà báo hoạt động trong thời bình, tài năng của các nữ nhà báo chiến sĩ thể hiện ở những khía cạnh đa dạng và sâu sắc hơn nhiều. Tài năng của các chị trước hết là trụ vững và sống sót được giữa trận mạc; là viết báo, làm báo trong hoàn cảnh ngặt nghèo của chiến tranh, thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nơi ăn chốn ở, thiếu phương tiện hỗ trợ trong khi bom đạn và cái chết luôn rình rập.
Tiếp đó mới là việc sản phẩm của các chị đã chinh phục ban biên tập, truyền lửa tới nơi hậu phương, làm khiếp sợ kẻ thù hay thuyết phục bạn bè quốc tế như thế nào. Những sản phẩm báo chí ấy - không chỉ thấm đẫm mồ hôi nước mắt, thấm đẫm lý tưởng cống hiến, đôi khi còn phải đánh đổi bằng máu, bằng một phần cơ thể, thậm chí bằng mạng sống của các chị - là những sản phẩm vô giá và các chị luôn là những tài năng mãi mãi được xếp hạng đầu và được ghi nhận và biết ơn.
Tất nhiên, với mỗi người họ, vẫn có những điều đặc biệt để nhắc nhớ.
Cuốn "Nhật kí chiến trường của nữ nhà báo" của Lệ Thu cũng khẳng định tài năng viết rất tuyệt vời của chị. Nhà thơ Hữu Thỉnh cho rằng sự nhạy cảm của một hồn thơ với sự kỹ càng sắc sảo của một nhà báo làm cho những trang nhật ký của Lệ Thu có cái quánh bện của sự kiện và hồn người… Giữa sống chết, công việc với đủ sự va đập của chiến trường, bà chỉ chọn những gì nổi bật nhất trong ngày, rọi ánh sáng vào đấy, làm bật lên cốt lõi, thần thái của sự việc.
Còn với nữ nhà văn, nhà báo Dương Thị Xuân Quý, tài năng của chị thể hiện cả trong hai lĩnh vực: Văn học và báo chí. Vào chiến trường năm 1968, chỉ trong một thời gian ngắn, giữa những đợt gùi cõng, phát rẫy, giữa những trận bom B52, trong sự hành hạ của những trận đói và sốt rét, Dương Thị Xuân Quý đã miệt mài viết và viết và viết và đã để lại nhiều tác phẩm giá trị. Chỗ đứng (truyện, 1968), Gương mặt thách thức (bút ký, 1969), Hoa rừng (tập truyện ký, 1970), Dương Thị Xuân Quý - Nhật ký, tác phẩm (NXB Hội nhà văn, 2007). Chị đã được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007.
Những đóng góp mang tên "phụ nữ"
Các nhà báo - chiến sĩ nữ đều ra trận với lý tưởng cách mạng, lý tưởng cống hiến phơi phới. Trong gian khổ, vất vả hy sinh, lý tưởng ấy càng tỏa sáng, tiếp thêm sức mạnh và nghị lực để họ viết tiếp những trang hào hùng của báo chí Cách mạng và của phụ nữ Việt Nam.
Nhà báo - liệt sĩ Trương Thị Mai (Sáu Mai) - người con gái nơi đất mũi Cà Mau. Trong Chiến dịch Mậu Thân 1968, nhà báo Sáu Mai vượt Trường Sơn vào Trung ương cục miền Nam và được phân công về làm cán bộ Thông tấn xã Giải phóng Khu 8. Tháng 4/1972, Sáu Mai bị địch phục kích, bắt. Trước bao đòn tra tấn hiểm độc của kẻ thù, nữ nhà báo một mực không khai và chị đã anh dũng hy sinh.

Nhà báo - liệt sĩ Nguyễn Thị Thanh Xuân
Nhà báo - liệt sĩ Nguyễn Thị Thanh Xuân, người con gái của vùng đất Đồng Hới, Quảng Bình, có 4 năm làm phóng viên giữa thời kỳ chiến tranh phá hoại ác liệt nhất của giặc Mỹ. Thấy nhà báo nữ vất vả và nhiều lần nguy hiểm tính mạng, Ban Biên tập muốn bố trí công việc khác phù hợp hơn nhưng chị một mực xin được đi cơ sở, cùng tham gia chiến đấu. Thế rồi, một buổi chiều, tại cơ sở mới của Báo Quảng Bình ở Thọ Linh (Quảng Trạch), khi đang ngồi viết bài cho số báo tới thì một loạt bom B52 ào ào trút xuống. Nữ nhà báo 23 tuổi đã hy sinh tại chỗ, đau xót là chị hy sinh chỉ 14 ngày, trước khi Tổng thống Mỹ R.Ních-xơn buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc (ngày 15/2/1973).
Cùng với Sáu Mai, Thanh Xuân, Dương thị Xuân Quý, còn nhiều nhà báo - chiến sĩ nữ đã nằm xuống trong khi đang trên đường đi làm nhiệm vụ hoặc trong lúc làm nhiệm vụ như liệt sĩ Phạm Thị Kim Oanh, liệt sĩ Phạm Thị Ngọc Huệ. Cuộc đời của các chị mãi mãi là tấm gương, là nguồn động lực thúc đẩy cho thế hệ những người làm báo hôm nay tiếp tục đóng góp công lao, trí tuệ của mình cho sự nghiệp cầm bút vì sự phồn vinh của Tổ quốc, của dân tộc Việt Nam.
"Lạ thế, biết hiểm nguy mà vẫn lăn vào…"
Là một phóng viên có cá tính mạnh mẽ, Dương Thị Xuân Quý từ khi là phóng viên Báo Phụ nữ Việt Nam đã có mặt khắp các vùng nông thôn trên miền Bắc. 7 năm làm phóng viên Báo Phụ nữ Việt Nam, Dương Thị Xuân Quý đã viết nhiều bài báo, một số truyện ngắn và bút ký, có những tác phẩm viết ngay tại tuyến lửa khu IV. Còn khi ra trận, Dương Thị Xuân Quý xin về chiến trường Quảng Đà - là chiến trường ác liệt nhất của khu V nói riêng và của cả miền Nam nói chung lúc bấy giờ. Trong nhật ký ngày 15/12/1968, chị viết: "Lạ thế, biết nguy hiểm nhưng vẫn sẵn sàng lao vào, dù có hy sinh"….
Khi đã đặt sự khách quan, chân thật lên trên hết thì các nhà báo - chiến sĩ nữ không ngại khó khăn gian khổ, sẵn sàng vượt núi cao vực sâu, tác nghiệp dưới mưa bom bão đạn, nơi cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Nữ nhà báo Cao Tân Hòa là người của TTXVN trên chiến trường lúc đó, hồi tưởng: "Ghẻ lở, sốt rét, bệnh tật, thậm chí hứng chịu cả cơn đói lả người… cũng không thể khiến các phóng viên của Thông tấn xã Việt Nam nao núng".
Nhà báo Triệu Thị Thùy cũng có những kí ức sinh động về gần một tháng băng rừng vào căn cứ của Ban Tuyên huấn khu V ở Nước Là (Trà My, Quảng Nam). "Lên dốc đã mệt, xuống dốc càng gian nan, đôi dép quai râu cọ vào các ngón chân rớm máu, chiếc ba lô sau lưng như muốn xô người xuống nên hai bàn tay phải bám chặt vào thân, rễ cây… Hàng vạn con vắt như những chiếc tăm cong mình ngoe nguẩy".
Gian khổ, khó khăn là vậy nhưng các chị luôn ý thức rất cao về tinh thần trách nhiệm đối với công việc, sẵn sàng làm mọi việc để hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ.
Chị Phạm Thị Ngọc Huệ khi làm cho Báo Trường Sơn, đã không quản ngại bất cứ việc gì, từ đến xưởng sửa bản in, gói báo, gánh báo ra tận trạm đón xe tải để vận chuyển vào tuyến trong, ra tuyến ngoài. Rồi, khi được giao viết tin bài, chị không chỉ đến binh trạm lấy tài liệu, mà còn xông xáo ra tận trọng điểm gặp các anh hùng như chiến sĩ lái xe Lê Bá Kiệm, lái máy Vũ Tiến Đề, Tiểu đoàn công binh 25, tới tận trận địa Trung đoàn Phòng không 224 ở Tha Mê, La Trọng, Khe Tang để tường thuật sinh động những trận đánh tiêu diệt máy bay Mỹ.
Với nhà báo Triệu Thị Thùy, làm báo là trách nhiệm với nghề được đặt lên trên hết. Năm 1974, khi nhận nhiệm vụ đưa tin về phong trào "Ba mũi giáp công" (đấu tranh vũ trang, chính trị, binh vận) tại Quảng Ngãi, chị đề nghị phải có mặt để ghi được hình ảnh một trận đánh vào đồn địch. Triệu Thị Thùy đã chụp được hình ảnh quả đạn B.41 lao vút sang đồn địch. Nhưng cái giá phải trả là chị đã bị thương khi địch cấp tập bắn trả. Vết đạn sượt qua ngực và 4 viên đạn đến bây giờ vẫn còn nằm trong ống chân nữ phóng viên ảnh chiến trường năm ấy.
Tác nghiệp trong điều kiện chiến tranh cần rất nhiều kĩ năng đặc biệt. Và chiến trường chính là một trường học lớn về nghề nghiệp. Nhà báo Cao Tân Hòa cho biết, lần đầu tiên đi đưa tin tại chiến dịch ở tỉnh Bình Định, bà được nghe và nắm rất rõ các sơ đồ, bản đồ địa hình, các phương án đánh địch. "Thế nhưng ra thực tế, tiếng súng đạn nổ chói tai, tôi không thể phân biệt được đâu là tiếng súng của địch, đâu là của quân mình. Không thể viết được tin, bài, tôi bật khóc". Sau đó, bà đã phải học để phân biệt được tiếng súng của quân đội ta và của kẻ địch.
Hoặc có lần, bà đã phải thực hiện một cuộc phỏng vấn để lấy tư liệu tại một địa điểm bí mật. Ban đêm, tắt đèn, chỉ được hỏi trong vòng 10 phút, không được nhìn thấy mặt nhân vật. Không thể ghi chép nên toàn bộ câu chuyện phải được ghi lại bằng trí nhớ.
Giản dị là điều mà nhà báo Đoàn Tử Diễn luôn nhìn thấy ở các đồng nghiệp nữ trên chiến trường. Ông viết: "Nhìn họ bình thường như mọi người khác. Họ không mang một chức vị gì đặc biệt nhưng trong những dung dị đời thường ấy là vẻ kiêu hãnh, điềm tĩnh mách bảo rằng họ thực sự là những con người từng trải. Trong máu huyết họ từng có khói lửa, có nhọc nhằn.
Nhà báo Triệu Thị Thùy bị thương khi ở bên các du kích đang chống trả đòn phản công của địch. Thế nhưng, vết thương lớn nhất trong lòng chị sau bấy nhiêu năm là nỗi tiếc thương những du kích trẻ đã ngã xuống. "Nằm điều trị thương tích ở bệnh viện dã chiến, tôi mới hay tin già nửa đội du kích tôi gặp trước hôm xin đi tác nghiệp ở chiến trận đã hy sinh. Trong đó có Hoa, cô gái mới 15-16 tuổi, vẫn tíu tít đòi tôi bày hát bài "miền Nam nhớ Bác"... Tôi tiếc đã không chụp ảnh đội du kích - những anh hùng vẫn sống cùng tôi ở chiến trường".
Lạc quan yêu đời, yêu người cũng là một phẩm chất đáng quý, giúp họ đi qua gian khó. Nhà báo Triệu Thị Thuỳ cho biết, trong vất vả, gian lao, những ngày sốt rét rừng, hay lả đói vì lũ rừng chia cắt đường tiếp tế lương thực, các nữ nhà báo chiến trường vẫn cảm nhận vẻ đẹp của bình minh, khi những tia nắng rọi qua những tán lá xanh.
Trong bức thư gửi gia đình ngày 16/4/1968, nhà báo, liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý đã viết: "Những ngày qua, em rất khỏe và phấn khởi. Em khỏe đến mức khó hiểu. Chúng em đã đi dưới biển trăng rất tuyệt diệu. Anh cứ yên tâm về em…".
Chiến tranh cũng không ngăn cản được tình yêu. "Sống ở chiến trường, con người cởi mở, trụi trần. Chẳng có gì để che giấu. Mà muốn giấu che điều gì e cũng khó. Bởi thế tình yêu đến với họ giản dị như chính cuộc sống của họ. Họ quý nhau, thương nhau bằng bát rau tập tàng, bằng những viên ký ninh dè sẻn. Họ dìu nhau qua con suối xiết mùa mưa...".
Đã 50 năm sau Đại thắng mùa xuân năm 1975, lý tưởng sáng ngời, phẩm chất cao quý, những cống hiến quan trọng của các nhà báo - chiến sĩ nữ và những bài học quý giá mà các chị để lại là vốn quý cho các thế hệ nhà báo đi sau soi mình, sửa mình, tìm nguồn cảm hứng để làm việc và cống hiến.