Tương tự như xét nghiệm PAP lấy mẫu tế bào cổ tử cung chẩn đoán ung thư cổ tử cung, nhưng thay vì sử dụng kính hiển vi để kiểm tra tế bào, các nhà khoa học sử dụng xét nghiệm sinh học phân tử để tìm kiếm virus HPV – nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung, sau đó phân tích sự thay đổi biểu hiện gene bằng xét nghiệm methyl hóa ở cả virus và bệnh nhân.
Nhóm nghiên cứu đã thực hiện xét nghiệm methyl hóa ngẫu nhiên với 15.744 phụ nữ trong độ tuổi từ 25-65 ở Canada. Từ đó, họ đã xác định được 8 người có biểu hiện của bệnh viêm lộ tuyến cổ tử cung độ 2, có thể dẫn đến ung thư cổ tử cung.
Tỷ lệ phát hiện trong nghiên cứu đạt hiệu quả 100%, cao hơn nhiều so với tỷ lệ 50 % của phương pháp xét nghiệm HPV và 25% của xét nghiệm PAP.
Tiến sĩ Attila Lorincz tại Viện Y học Dự phòng Wolfson thuộc Đại học Queen Mary (Anh), tác giả chính của nghiên cứu trên, chia sẻ: “Chúng tôi không chỉ kinh ngạc về độ chính xác của xét nghiệm này trong việc phát hiện ung thư cổ tử cung, mà đây còn là lần đầu tiên chứng minh được vai trò chính của biểu sinh trong sự phát triển của một bệnh ung thư bằng cách sử dụng dữ liệu từ bệnh nhân trong phòng khám. Phát hiện biểu sinh có thể là một yếu tố quan trọng hơn trong sự tiến triển của nhiều loại ung thư - bao gồm cả ung thư cổ tử cung, đại trực tràng, tuyến tiền liệt, ung thư vòm họng...”.
Theo tiến sĩ Lorincz, xét nghiệm biểu sinh phát hiện ung thư cổ tử cung từ giai đoạn rất sớm, nhiều năm trước khi ung thư biểu hiện thành các triệu chứng. Đây là việc mà các phương pháp xét nghiệm sàng lọc khác không thể thực hiện.
Thực tế, từ năm 1988, tiến sĩ Lorincz đã tham gia vào các nghiên cứu phát triển xét nghiệm HPV. Tuy những thử nghiệm này chính xác hơn so với phương xét nghiệm PAP truyền thống nhưng nó chỉ xác định được liệu phụ nữ có bị nhiễm chủng HPV có nguy cơ cao gây ung thư hay không. Còn thử nghiệm mới này sẽ giúp phát hiện ra những thay đổi biểu sinh đối với các tế bào cổ tử cung là nguyên nhân trực tiếp gây ra khối u.
“Nghiên cứu này có thể sẽ mất khoảng 5 năm để trở thành một phương pháp được sử dụng tại các phòng khám và bệnh viện. Tuy nhiên, đây là một tác động tích cực đáng kể trong tương lai”, tiến sĩ Lorincz kết luận.