Quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân: Thực tiễn và giải pháp thực hiện ở Hội LHPN Việt Nam hiện nay

Hà Trung Hiếu
20/03/2025 - 19:47
Quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân: Thực tiễn và giải pháp thực hiện ở Hội LHPN Việt Nam hiện nay

Cán bộ Đồn Biên phòng Cửa khẩu Sóc Giang hướng dẫn hội viên, phụ nữ xã Trường Hà (Hà Quảng, Cao Bằng) nhận biết về đường biên, mốc quốc giới. Ảnh minh hoạ: Báo Cao Bằng

Trong bối cảnh tình hình an ninh - quốc phòng ngày càng phức tạp và đa chiều, xây dựng nền quốc phòng toàn dân đã trở thành một nhiệm vụ cấp bách và tối thượng của Đảng và Nhà nước. Quan điểm của Đảng về việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân không chỉ dừng lại ở việc củng cố lực lượng vũ trang mà còn đòi hỏi sự tham gia chủ động của toàn thể nhân dân, trong đó phụ nữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng.

Vào tháng 10/1930, tại Hội nghị Trung ương lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương, Nghị quyết về Phụ nữ vận động đã được thông qua với những định hướng trọng yếu. Nghị quyết khẳng định “Lực lượng cách mạng của phụ nữ là một cái lực lượng rất trọng yếu. Nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không tham gia vào những cuộc tranh đấu cách mạng thì cách mạng không thắng lợi được. Bởi vậy, nên công tác trong quần chúng phụ nữ không phải là một cái nhiệm vụ phụ thuộc của Đảng; công tác ấy chánh là một cái nhiệm vụ rất lớn và rất trọng yếu”.. Đồng thời, nghị quyết cũng chỉ rõ rằng Đảng phải tổ chức ra các đoàn thể phụ nữ, phụ nữ hiệp hội mục đích là mưu quyền cho phụ nữ, làm cho phụ nữ triệt để giải phóng” [1].

Đây là một nghị quyết mang tính lịch sử, mở ra trang sử mới cho phong trào phụ nữ và tổ chức Hội ở Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng, một chính đảng đã đánh giá đúng vai trò, vị trí và tiềm năng cách mạng của phụ nữ, đồng thời xây dựng những chủ trương và phương thức lãnh đạo phù hợp để tập hợp, huy động phụ nữ tham gia vào đấu tranh cách mạng. Đại thắng Mùa Xuân năm 1975 đã mở ra kỷ nguyên mới với nền độc lập, thống nhất và sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Năm 1976, Hội LHPN Việt Nam và Hội LHPN Giải phóng miền Nam Việt Nam đã hợp nhất, chọn ngày 20/10/1930 làm ngày thành lập Hội LHPN Việt Nam. Sự thống nhất này đã tạo nên sức mạnh mới, mở đường cho phong trào phụ nữ nước ta vươn lên tầm cao mới, khi hàng loạt các cuộc vận động, phong trào thi đua. Hàng loạt cuộc vận động, phong trào thi đua mới được phát động và triển khai rộng khắp: Phong trào “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng đất nước, “Rèn luyện các phẩm chất đạo đức: Tự tin - Tự trọng - Trung hậu  - Đảm đang” gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh,...

Cho đến nay Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam có chức năng đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản lý Nhà nước. Ngoài ra Hội còn đoàn kết, vận động phụ nữ thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới. Với vai trò, ý nghĩa lịch sử như vậy Hội LHPN Việt Nam đóng góp vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nhất là trong bối cảnh vô cùng phức tạp như hiện nay.

Theo quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân được thể hiện ở các nội dung cụ thể sau:

Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước đối với xây dựng nền quốc phòng toàn dân.

Đây là quan điểm lớn, nhất quán, chủ đạo trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng đề ra đường lối và quyết định các vấn đề liên quan đến quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đảng lãnh đạo, đề ra chủ trương, đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng và giải pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc. Nhà nước quản lý quốc phòng theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; Nhà nước quản lý, điều hành xây dựng nền quốc phòng toàn dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Hai là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, hiện đại, chủ động hội nhập quốc tế.

Đây là quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình xây dựng và phát triển nền quốc phòng toàn dân. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, hiện đại, không ngừng tăng cường tiềm lực đất nước; đặc biệt coi trọng xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, văn hóa; xây dựng cơ sở chính trị - xã hội; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước; tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Phát huy mọi tiềm năng, trí tuệ sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; khai thác tối đa và tận dụng có hiệu quả mọi tiềm năng lao động, thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thành tựu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ sở vật chất kỹ thuật của cả nư­ớc, của quân đội; đồng thời, tranh thủ sự hợp tác của các tổ chức quốc tế, khu vực và của các n­ước; sử dụng có hiệu quả nhất mọi nguồn lực từ bên ngoài và các điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân bằng sức mạnh tổng hợp của đất nước, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đây là quan điểm chỉ đạo cơ bản trong xây dựng sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nắm vững mục tiêu phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc... Xây dựng sức mạnh tổng hợp của đất nước về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, lực lượng vũ trang là nòng cốt; tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bốn là, ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.

Đây là quan điểm chỉ đạo bảo đảm sự chủ động trong các tình huống chiến lược, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước, sẵn sàng đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Chủ động phòng ngừa, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị tạo sức mạnh “nội lực” bảo vệ và giữ vững bên trong là chính; chủ động, tích cực đẩy mạnh đối ngoại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để tạo sức mạnh “ngoại lực” bảo đảm quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố, nhất là các nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Chủ động, tích cực ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh là một trong các nhiệm vụ quốc phòng trọng yếu trong thời bình; nhằm thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc tối ưu là bảo vệ được chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa và các lợi ích quốc gia - dân tộc. Xây dựng sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... nhằm triệt tiêu các nguyên nhân dẫn đến xung đột vũ trang và chiến tranh; đồng thời, chuẩn bị đầy đủ về tiềm lực, lực lượng, thế trận dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước do toàn thể nhân dân thực hiện, trong đó lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Xây dựng ngay từ thời bình, sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân đánh thắng mọi hình thái chiến tranh của kẻ thù trong mọi tình huống.

Dựa trên tình hình thực tế của đất nước, vai trò nhiệm vụ của Hội LHPN Việt Nam và quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, có thể đánh giá được và đưa ra một số thực tiễn như sau:

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là quan điểm cơ bản chỉ đạo việc xây dựng nền quốc phòng của nước ta, thuộc trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân là nòng cốt. Thực tiễn sự nghiệp đổi mới gần 40 năm qua cho thấy, tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân được xây dựng khá toàn diện, lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, tăng cường; công tác giáo dục quốc phòng và an ninh được chú trọng; kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, tạo tiền đề huy động các nguồn lực thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Lực lượng vũ trang được xây dựng vững mạnh về chính trị, sức chiến đấu ngày càng cao, từng bước tiến lên hiện đại, phát huy tốt vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Khu vực phòng thủ các tỉnh, thành phố được xây dựng ngày càng vững chắc; hệ thống công trình phòng thủ biển, đảo, biên giới, địa bàn chiến lược trọng yếu từng bước hoàn thiện; việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, xây dựng cơ sở chính trị được chú trọng; thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân được gắn kết khá chặt chẽ, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong từng ngành, địa bàn và cả nước.

Trong thời kỳ đổi mới đất nước, phụ nữ Việt Nam với lực lượng đông đảo, tiếp tục có những đóng góp rất quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo của Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) Việt Nam, trong những năm qua, công tác phụ nữ và phong trào phụ nữ đã có những bước phát triển mới, toàn diện, thiết thực, hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, thông qua các chương trình phối hợp hoạt động giữa Trung ương Hội LHPN Việt Nam với Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, tiêu biểu như với các đơn vị: Bộ tư lệnh Quân chủng Hải Quân, Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng… đã đạt được những kết quả rất thiết thực, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Tổ chức phụ nữ trong cả nước đã luôn quán triệt và tổ chức tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; có nhiều hình thức tuyên truyền, giáo dục khơi dậy tình yêu quê hương, đất nước trong hội viên và toàn xã hội; tích cực tham gia giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố quốc phòng-an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ và thế trận lòng dân vững chắc; tham gia thực hiện chính sách hậu phương quân đội và các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của từng đơn vị, địa phương. Quá trình thực hiện đã xuất hiện nhiều phong trào hay, mô hình, cách làm sáng tạo, có sức lan tỏa sâu rộng, như: Phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, cuộc vận động rèn luyện 4 phẩm chất đạo đức “Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang”; hay các mô hình “Gia đình không có người phạm tội, không mắc các tệ nạn xã hội”, “Phụ nữ với biển, đảo quê hương”, “Phụ nữ vì sự phát triển và bình yên tuyến biển”, “Phụ nữ hướng về biên giới, biển, đảo Việt Nam”...; gần đây, phụ nữ cả nước còn phát động và quyên góp được hàng chục tỷ đồng ủng hộ các lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Phụ nữ Việt Nam không chỉ trực tiếp tham gia xây dựng củng cố nền quốc phòng toàn dân mà còn là trụ cột đảm đương công việc gia đình, xây dựng hậu phương vững chắc, là điểm tựa để cán bộ, chiến sĩ LLVT yên tâm công tác, vững vàng tay súng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa [2].

Với những nỗ lực đó, giai đoạn 2019 - 2024, cán bộ, hội viên phụ nữ đã: Cung cấp kịp thời 19 nghìn nguồn tin có giá trị liên quan đến công tác an ninh trật tự, an toàn xã hội, giúp cho lực lượng công an và các ngành chức năng khám phá nhiều vụ án liên quan đến tội phạm và tệ nạn xã hội.

Tại 63 tỉnh/thành trên cả nước, 11 nghìn CLB, Tổ, Nhóm phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội với hơn 400 nghìn thành viên tham gia. Nhiều mô hình tiêu biểu như mô hình "Nhóm liên gia phòng, chống ma túy" (TP Hà Nội); "Tiếng kẻng bình yên" (Quảng Bình); "Dòng họ, giáo họ an ninh - văn hóa", "Tổ liên gia tự quản" (Hà Tĩnh); Tổ tư vấn "Lắng nghe nạn nhân - Hành động chia sẻ" (TP Đà Nẵng); Mô hình "Xứ, họ đạo bình yên - Chùa tinh tiến về an ninh trật tự", "An toàn khu, điểm du lịch" (Ninh Bình)… được xây dựng, nhân rộng, góp phần giữ gìn an ninh, trật tự, xây dựng môi trường sống an toàn, văn minh tại địa bàn cơ sở [3].

Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế, đó là: Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc còn hạn chế; Việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về quốc phòng cho các hội viên, phụ nữ còn chưa được hệ thống hóa và hiện đại hóa, dẫn đến hiệu quả tham gia trong các nhiệm vụ quốc phòng còn hạn chế; Sự liên kết, phối hợp giữa Hội LHPN Việt Nam với các cơ quan chức năng và các tổ chức chính trị - xã hội khác chưa đạt đến mức tối ưu, gây khó khăn trong việc triển khai các chính sách và chương trình chung; Việc nắm, dự báo, xử lý tình huống về quốc phòng, an ninh ở một số địa phương, cơ sở có lúc còn bị động, bất ngờ, thậm chí có nội dung chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.

Dự báo trong thời gian tới, tình hình an ninh, chính trị thế giới, khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, diễn biến nhanh, khó đoán định. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ gia tăng, khó kiểm soát. Biển Đông tiềm ẩn nhiều nguy cơ làm gia tăng xung đột. Trong nước, “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng cảnh báo vẫn còn hiện hữu, có mặt sẽ còn diễn biến phức tạp và gay gắt hơn. Những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; sự xuống cấp về các giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống; những mâu thuẫn, bức xúc trong xã hội sẽ còn diễn biến phức tạp; phân cực giàu - nghèo có xu hướng ngày càng gia tăng” [4], nếu không được ngăn chặn, đẩy lùi, sẽ trở thành nhân tố trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ. Cùng với đó, các thế lực thù địch, phản động tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, sự nghiệp đổi mới; chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà nước, quân đội, ảnh hưởng đến sức mạnh tổng hợp của đất nước.

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác phụ nữ trong tình hình mới.

Tập trung quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, thường xuyên tuyên truyền, giáo dục bằng các hình thức, biện pháp phù hợp để nâng cao nhận thức trách nhiệm của phụ nữ đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đây không chỉ là nhiệm vụ chiến lược mà còn là yếu tố quyết định để phụ nữ phát huy vai trò của mình trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Qua đó, phụ nữ Việt Nam sẽ không chỉ là lực lượng nòng cốt trong việc bảo vệ Tổ quốc mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước trong kỷ nguyên hội nhập quốc tế và chuyển đổi số.

Thứ hai, tăng cường giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân, tập thể Hội phụ nữ các cấp về thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục phổ biến nâng cao nhận thức và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Tăng cư­­ờng sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, phát huy vai trò của Hội phụ nữ các cấp, tạo sức mạnh tổng hợp và sự thống nhất, đồng bộ trong triển khai thực hiện công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng. Tiếp tục đổi mới chương trình, giáo trình, tài liệu giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng phù hợp với từng đối t­­ượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Chú trọng kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của hội đồng giáo dục quốc phòng và an ninh các cấp. Phát huy tốt vai trò tham m­­ưu, tư­­­ vấn giúp các cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.

Thứ ba, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nền tảng vững chắc xây dựng “thế trận lòng dân” gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc.

Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nền tảng xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc sẽ tạo nên sức mạnh chính trị, quân sự, quốc phòng, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc chính là quy tụ lòng người, tạo đồng thuận, tin tưởng tuyệt đối của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; quy tụ được lực lượng vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân, tạo nền tảng xây dựng “thế trận lòng dân” gắn với thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Nhân dân là lực lượng đông đảo, được tổ chức chặt chẽ tham gia xây dựng, quản lý, bảo vệ các công trình quân sự, quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội của các địa phương, trên các vùng, miền của đất nước.

Thứ tư, kết hợp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, đối ngoại với tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng.

Trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, đối ngoại của quốc gia, từng ngành và từng địa phương phải luôn kết hợp chặt chẽ và hiệu quả với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ và đối ngoại; chú trọng trên hướng chiến lược, địa bàn trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo.

Thứ năm, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, chủ động tạo môi trường hòa bình, ổn định và lợi thế cho xây dựng, củng cố quốc phòng.

Quán triệt và tổ chức thực hiện tốt chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng; phát huy hiệu quả hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, trong đó có đối ngoại quốc phòng. Xây dựng tiềm lực và thế trận đối ngoại gắn kết với thiết lập thế trận quốc phòng liên hoàn bên trong với bên ngoài biên giới quốc gia và trên không gian mạng. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, kết hợp chặt chẽ đối ngoại với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với đối ngoại để thực hiện tốt phương châm chỉ đạo chiến lược “trong ấm, ngoài êm” bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; tạo môi trường hòa bình, ổn định và thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường sức mạnh quốc phòng.

Thứ sáu, tăng cường phối hợp liên ngành và liên cơ quan

Xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam với các cơ quan chức năng, tổ chức chính trị – xã hội và các đơn vị khác để triển khai các chính sách, chương trình quốc phòng một cách thống nhất. Thiết lập hệ thống đối thoại, phối hợp thường xuyên giữa các bên nhằm đảm bảo thông tin và nguồn lực được chia sẻ, sử dụng hiệu quả.

Thứ bảy, tham mưu, đề xuất và hoàn thiện chính sách pháp luật

Tích cực tham mưu, phản biện xã hội và đề xuất cải thiện các văn bản pháp luật, chính sách liên quan đến quyền lợi của phụ nữ, bình đẳng giới và việc tham gia quốc phòng. Xây dựng cơ chế giám sát hiệu quả, đảm bảo tiếng nói của phụ nữ được đưa vào quá trình xây dựng, ban hành và thực hiện các chính sách của Nhà nước.

Việc đề xuất định hướng về mục tiêu, quan điểm, nội dung, nhiệm vụ, giải pháp là nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả và hướng tới xây dựng một nền quốc phòng toàn dân vững mạnh cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.

[2] https://www.hoilhpn.org.vn/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/phat-huy-vai-tro-cua-phu-nu-viet-nam-thuc-hien-thang-loi-nhiem-vu-bao-ve-to-quoc-trong-tinh-hinh-moi-24696-1204.html

[3] https://www.hoilhpn.org.vn/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/phat-huy-vai-tro-cua-phu-nu-trong-phong-trao-034-toan-dan-bao-ve-an-ninh-to-quoc-034--197901-2.html

[4] Dẫn theo Dự thảo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, H,2022.

Ý kiến của bạn
(*) Nội dung bắt buộc cần có
0 bình luận
Xem thêm bình luận

Nhập thông tin của bạn

Đọc thêm