Sơn La: Khi văn hóa bản địa trở thành nguồn lực phát triển bền vững
Hoạt động văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc Sơn La được gìn giữ và phát huy, trở thành nguồn lực quan trọng thúc đẩy phát triển du lịch của địa phương
Những năm gần đây, tại Sơn La, từ bàn tay, khối óc của những nghệ nhân, già làng, người có uy tín và sự tiếp nối trách nhiệm của thế hệ trẻ, các giá trị văn hóa truyền thống ở địa phương này được bảo tồn, lan tỏa và gắn kết hài hòa với du lịch cộng đồng, tạo sinh kế bền vững, nâng cao đời sống người dân.
Nghệ nhân là những người "giữ hồn" bản sắc
Sơn La có 12 dân tộc anh em sinh sống, mỗi dân tộc mang trong mình một kho tàng văn hóa phong phú và độc đáo. Những điệu xòe Thái mềm mại, tiếng khèn Mông vang vọng núi rừng, chữ viết cổ của người Dao, lễ hội cầu mưa, lễ hội Hết Chá, nghề dệt thổ cẩm, làm giấy thủ công… đã làm nên bản sắc riêng không thể trộn lẫn của miền đất Tây Bắc này.
Trong bối cảnh hội nhập và phát triển, khi du lịch được xác định là một trong những ngành kinh tế quan trọng, Sơn La lựa chọn hướng đi lấy văn hóa làm nền tảng, cộng đồng làm chủ thể. Ở đó, nghệ nhân, già làng, trưởng bản chính là những "bảo tàng sống", lặng lẽ giữ gìn, trao truyền tri thức bản địa qua từng câu chuyện, nghi lễ, làn điệu dân gian.
Tại các bản người Thái ở Mộc Châu, Mai Sơn, Quỳnh Nhai, nhiều nghệ nhân cao tuổi vẫn miệt mài truyền dạy điệu xòe cổ, khắp Thái, các nghi lễ vòng đời người cho thế hệ trẻ. Với đồng bào Mông ở Vân Hồ, Bắc Yên, những già làng, người có uy tín giữ vai trò quan trọng trong việc bảo tồn tiếng nói, khèn Mông, nghề vẽ sáp ong trên vải, làm giấy truyền thống.

Những nghệ nhân, già làng, trưởng bản ở Sơn La được ví như “bảo tàng sống”, kiên trì gìn giữ và lan tỏa tri thức bản địa cho các thế hệ hôm nay và mai sau
Một trong những điển hình tiêu biểu là nghệ nhân Lừ Văn Chiến, xóm 5, xã Quỳnh Nhai. Dù tuổi đã cao, ông vẫn miệt mài mở các lớp truyền dạy chữ Thái miễn phí cho trẻ em và người dân trong vùng. Từ thực tiễn giảng dạy, ông nghiên cứu, biên soạn tài liệu học chữ Thái theo từng cấp độ, từ học vần, tập đọc đến thực hành viết đoạn văn ngắn.
Năm 2007, ông Chiến vinh dự được mời tham gia mạng lưới bảo tồn chữ Thái ở Việt Nam do Trung tâm Bảo tồn và Phát triển tri thức bản địa các dân tộc thiểu số Việt Nam (REDD) tổ chức. Quá trình đi thực tế tại nhiều tỉnh có đồng bào Thái sinh sống đã góp phần quan trọng vào việc thống nhất bộ chữ Thái Việt Nam, tạo cơ sở triển khai giảng dạy rộng rãi. Năm 2016, chữ viết cổ của người Thái Sơn La được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, trong đó có dấu ấn đóng góp bền bỉ của ông.
"Văn hóa nếu không truyền lại thì sẽ mất. Dạy chữ cho con cháu là để các em sống cùng văn hóa, chứ không chỉ biết về văn hóa", ông Chiến chia sẻ.
Hay như nghệ nhân Đinh Thị Việt, ở tiểu khu Chiềng Thượng, xã Phù Yên, là người bền bỉ gìn giữ nghề may, dệt trang phục truyền thống của dân tộc Thái. Gắn bó với khung cửi từ năm 14 tuổi, bà Việt tự tay dệt nên váy áo, chăn màn cho gia đình, coi nghề dệt là niềm tự hào của người phụ nữ Thái. Hiện nay, bà thường xuyên truyền dạy nghề cho thế hệ trẻ, với mong muốn trang phục truyền thống của dân tộc không những được duy trì trong cộng đồng, mà còn là sản phẩm du lịch được bán rộng rãi ra thị trường, góp phần quảng bá hình ảnh văn hóa của dân tộc mình.

Phụ nữ Sơn La kiên trì gìn giữ và truyền dạy nghề dệt truyền thống, góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa và tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng
Văn hóa truyền thống là nguồn lực thúc đẩy phát triển du lịch
Điểm sáng trong công tác bảo tồn văn hóa ở Sơn La là sự tham gia ngày càng tích cực của thế hệ trẻ. Không chỉ học hỏi từ các nghệ nhân, nhiều bạn trẻ đã chủ động đưa vốn văn hóa truyền thống vào các hoạt động du lịch cộng đồng, tạo nên những cách tiếp cận mới, phù hợp với nhịp sống hiện đại.
Tại các làng du lịch cộng đồng, thanh niên dân tộc thiểu số tham gia làm hướng dẫn viên, biểu diễn văn nghệ, hướng dẫn du khách trải nghiệm nghề thủ công, chế biến ẩm thực truyền thống. Các lớp học chữ Thái, chữ Dao, câu lạc bộ dân ca, dân vũ được duy trì thường xuyên, giúp văn hóa không bị "đóng khung" trong lễ hội mà sống động trong đời sống thường ngày.
Một trong những dấu ấn rõ nét của việc bảo tồn văn hóa gắn với du lịch tại Sơn La là sự phục dựng và phát huy các nghề thủ công truyền thống. Tại nhiều bản du lịch, người dân mở cửa đón khách tham quan, trực tiếp hướng dẫn quy trình làm nghề, để du khách tự tay tạo ra sản phẩm và mang về làm kỷ niệm. Những sản phẩm thủ công không chỉ có giá trị sử dụng, mà còn chứa đựng câu chuyện văn hóa, trở thành "sứ giả" quảng bá bản sắc Sơn La đến bạn bè trong nước và quốc tế.
Du khách đến với các bản du lịch cộng đồng được tham gia giã bánh dày, nấu xôi ngũ sắc, thưởng thức rượu cần, nghe kể chuyện bản làng, hòa mình vào những đêm giao lưu văn nghệ. Văn hóa vì thế không chỉ được "xem" mà được "chạm", được cảm nhận bằng nhiều giác quan.

Du khách thích thú với các lễ hội truyền thống tại Sơn La
Thực tiễn từ Sơn La cho thấy, khi văn hóa được đặt đúng vị trí, trở thành nền tảng của phát triển khi gắn với du lịch, sẽ không làm mai một bản sắc mà còn tiếp sức cho văn hóa hồi sinh. Thu nhập từ du lịch giúp người dân yên tâm giữ nghề, giữ lễ, giữ tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình.
Từ những bản làng vùng cao đến các điểm du lịch cộng đồng, Sơn La đang khẳng định hướng đi đúng đắn: lấy văn hóa làm gốc, lấy người dân làm chủ thể, lấy du lịch làm động lực. Văn hóa không chỉ được lưu giữ trong ký ức, mà đang hiện hữu trong từng sản phẩm, từng câu chuyện, từng nụ cười đón khách, đã trở thành nguồn lực bền vững cho sự phát triển vững bền.
Sơn La cũng tổ chức 17 lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, truyền dạy văn hóa phi vật thể: 11 lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, truyền dạy văn hóa phi vật thể và 06 lớp tập huấn về nghiệp vụ về du lịch cho cán bộ xã và người dân; Hỗ trợ nghiên cứu, phục hồi, bảo tồn, phát huy 02 di sản văn hóa phi vật thể các dân tộc thiểu số có nguy cơ mai một: Lễ hội Mợi của người Mường; Môn thể thao Tu lu và bắn nỏ của người Mông;
Xây dựng 02 mô hình văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số: Mô hình đời sống văn hóa đồng bào dân tộc Mông tại xã Lóng Luông, huyện Vân Hồ; Mô hình đời sống văn hóa đồng bào dân tộc Thái tại xã Chiềng Pằn, huyện Yên Châu; Xây dựng 10 câu lạc bộ sinh hoạt văn hóa dân gian tại các thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng di dân tái định cư; Hỗ trợ hoạt động cho 70 đội văn nghệ truyền thốn tại các bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Hỗ trợ 576 bộ trang thiết bị cho các nhà văn hóa thôn bản…