pnvnonline@phunuvietnam.vn
Thúc đẩy bình đẳng giới trong khu vực công: Thay đổi để phụ nữ tiến xa hơn

Ông Lê Khánh Lương - Vụ trưởng Vụ Công tác thanh niên và Bình đẳng giới, Bộ Nội vụ - chia sẻ tại Hội thảo
Phát biểu khai mạc tại Hội thảo "Thúc đẩy bình đẳng giới trong khu vực công" vào ngày 6/6/2025, PGS.TS. Dương Trung Ý - Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - đã nhấn mạnh 3 nội dung trọng tâm cần được làm rõ để thúc đẩy bình đẳng giới thực chất trong khu vực công.
Thứ nhất, xác định rõ các rào cản và nguyên nhân sâu xa dẫn đến khoảng cách giới, bao gồm yếu tố thể chế, văn hóa và thực tiễn thực thi chính sách. Thứ hai, đề xuất các giải pháp đồng bộ, khả thi và phù hợp với thể chế chính trị - hành chính của Việt Nam, trong đó nhấn mạnh vai trò của người đứng đầu, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và các công cụ giám sát dựa trên bằng chứng. Thứ ba, chia sẻ những kinh nghiệm thực tiễn, sáng kiến và mô hình thành công từ các bộ, ngành, địa phương và tổ chức quốc tế, từ đó góp phần lan toả cách làm hay, tư duy mới trong quản trị công.
Ông Lê Khánh Lương, Vụ trưởng Vụ Công tác thanh niên và Bình đẳng giới, Bộ Nội vụ, đã trình bày về những tiến bộ của Việt Nam trong việc thúc đẩy bình đẳng giới trong khu vực công. Trong những năm qua, việc này đã đạt được những kết quả nhất định, thể hiện ở tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ngày càng tăng, nhận thức xã hội về vai trò, vị thế của phụ nữ được cải thiện. Các yếu tố kinh tế - xã hội, hệ thống luật pháp, cùng sự chuyển biến tích cực trong tư duy lãnh đạo đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ phát triển.
Thuận lợi từ thể chế và xã hội
Ông Lê Khánh Lương cho biết, một trong những thuận lợi lớn là hệ thống chính sách, pháp luật về tuyển dụng, đào tạo, luân chuyển, đánh giá, bổ nhiệm cán bộ đã ngày càng hoàn thiện theo hướng đảm bảo quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho cả nam và nữ. Thực tiễn triển khai chính sách bình đẳng giới cũng có nhiều điểm sáng, nhất là trong công tác quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ nữ. Tỷ lệ nữ giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt tại chính quyền địa phương cấp tỉnh năm 2024 đạt 76%, cấp huyện là 44,69% và cấp xã là 47,54%. Ở cấp trung ương, tính đến cuối năm 2024, nữ giữ chức Bộ trưởng và tương đương đạt 13,3%, Thứ trưởng đạt 11,9%, trong khi tỷ lệ nữ Phó Tổng cục trưởng đã tăng lên 18%.
Về mặt xã hội, trình độ học vấn của nữ giới được nâng cao, nhiều phụ nữ có địa vị kinh tế - xã hội vững vàng và chủ động tham gia vào bộ máy lãnh đạo, quản lý. Trong các cơ quan công sở, ngày càng có nhiều tấm gương phụ nữ tiêu biểu, năng động, đổi mới, góp phần lan tỏa tinh thần bình đẳng giới trong môi trường làm việc.
Những rào cản chưa dễ gỡ
Tuy nhiên, không ít khó khăn, thách thức vẫn đang hiện hữu. Theo ông Lê Khánh Lương, cơ chế giám sát việc thực hiện chính sách bình đẳng giới chưa đủ mạnh, bộ máy công tác còn thiếu thống nhất, chế tài xử lý các đơn vị không tuân thủ chưa đủ sức răn đe. Cơ sở dữ liệu về bình đẳng giới trong khu vực công chưa vận hành hiệu quả, gây khó khăn trong việc theo dõi, đánh giá chính xác tình hình. Tỷ lệ nữ trong Ban chấp hành Trung ương Đảng nhiệm kỳ 2020 - 2025 vẫn chỉ chiếm 9,5%, trong Ban thường vụ các Đảng bộ trực thuộc Trung ương là 12,91%. Ở các cơ quan thuộc Chính phủ, tháng 3/2025 chỉ có 1/5 đơn vị có lãnh đạo chủ chốt là nữ, tương đương 20%.
Về mặt nhận thức, định kiến giới vẫn tồn tại dai dẳng trong gia đình, công sở và xã hội. Tư tưởng "trọng nam hơn nữ" khiến phụ nữ gặp rào cản vô hình trong quá trình phát triển nghề nghiệp. Ở chính nữ giới cũng tồn tại những rào cản nội tại như thiếu tự tin, ngại quảng bá bản thân, hạ thấp mục tiêu, từ đó hạn chế cơ hội thăng tiến. Không thể không kể đến gánh nặng lao động không lương trong gia đình - phần lớn do phụ nữ gánh vác - khiến họ bị giới hạn về thời gian và nguồn lực để phát triển bản thân trong lĩnh vực công.

Quang cảnh tại Hội thảo "Thúc đẩy bình đẳng giới trong khu vực công"
Hướng đi nào cho bình đẳng giới thực chất?
Để tháo gỡ những "nút thắt" và thúc đẩy bình đẳng giới trong khu vực công một cách thực chất, ông Lê Khánh Lương khẳng định, cần đồng thời thực hiện nhiều giải pháp mạnh mẽ:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về cán bộ nữ, đảm bảo tỷ lệ nữ tham gia ở các vị trí lãnh đạo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Việc rà soát, bổ sung chính sách đặc thù là cần thiết để không ai bị bỏ lại phía sau.
Thứ hai, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch và sử dụng cán bộ nữ. Đặc biệt cần phát triển các mô hình "vườn ươm lãnh đạo nữ trẻ" và xây dựng mạng lưới phụ nữ lãnh đạo nhằm chia sẻ kinh nghiệm, truyền cảm hứng và nâng cao năng lực.
Thứ ba, đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới, nhất là vai trò của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức. Việc tôn vinh những nữ lãnh đạo tiêu biểu sẽ góp phần lan tỏa hình mẫu, thay đổi tư duy xã hội.
Thứ tư, tăng cường hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm và huy động nguồn lực để triển khai các chương trình thúc đẩy bình đẳng giới bền vững.
Cuối cùng, cần tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách bình đẳng giới, đồng thời đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu về cán bộ nữ - làm nền tảng cho hoạch định chính sách và theo dõi tiến độ thực hiện.
Để bình đẳng giới trong khu vực công không chỉ là khẩu hiệu mà trở thành hiện thực, cần quyết tâm chính trị, hành động cụ thể, đồng bộ và liên tục. Khi phụ nữ được tạo điều kiện, được tin tưởng và trao quyền, họ sẽ tiến xa hơn, không chỉ đóng góp hiệu quả cho bộ máy công quyền, mà còn là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước.