pnvnonline@phunuvietnam.vn
Truyện ngắn: Bến đợi
Ảnh minh họa
Được về đến bến đò thì trăng đã lên giữa đỉnh trời. Được ngồi xuống thềm quán nhỏ dưới gốc đa. Đêm im gió. Những cành đa vươn dài in bóng ngoằn ngoèo xuống nền đất âm ẩm. Hình như Được nghe thấy tiếng mái chèo khua nước. Tiếng chèo lẫn vào tiếng sóng vỗ oàm oạp vào bờ. Có phải là ông biết Được về nên chèo đò sang đón Được đấy không. Được muốn đứng dậy, lần ra mép sông chờ ông. Được muốn nhảy ùm xuống, tắm sông như ngày còn bé. Nước sẽ vỗ về và ôm ấp Được.
Nhưng sao Được đau đầu quá. Những tiếng rì rầm ở đâu vây quanh Được, gọi Được hướng về phía ấy. Chập chờn. Những khuôn mặt méo mó trôi dập dềnh trong không gian sền sệt màu nến bị đốt cháy. Những khuôn mặt vừa quen, vừa lạ xoay tròn quanh Được. Những tiếng rì rầm không rõ lời tạo thành vòng xoáy cuốn Được vào. Được bấu tay vào chiếc cột chống quán, cố giữ mình neo lại.
Những sớm tinh sương, khi đò vừa cập bến cũng là lúc bà Thêu dọn hàng. Trong lúc chờ có khách về lại phía bên kia, ông và Được giúp bà Thêu dọn quán. Bà Thêu chẳng nhờ nhưng ông và Được cứ giúp như một thói quen không thể bỏ. Khách lạ cứ ngỡ ông, Được và bà Thêu là một gia đình. Khách quen thì trêu ông sao không đón bà Thêu về, già rồi, sống chẳng được bao nhiêu năm nữa mà cứ dùng dằng mãi. Ông chỉ cười gượng. Ông thích uống nước chè bà Thêu hãm. Ông vừa uống nước, vừa nhìn xa xôi, bảo chẳng ai hãm chè xanh ngon được như bà Thêu. Nước chè sóng sánh, uống vào chát mà ngọt hậu, tỉnh cả người. Nhớ ngày trai trẻ, ông cày cả buổi sáng, mệt tưởng như không lê nổi chân, chỉ cần uống một tích chè xanh bà hãm là đổi trâu cày băng băng thêm vài sào ruộng nữa. Quán nước thông thốc gió thổi bạt cả lời của bà Thêu. "Chuyện cũ qua rồi, ông nhắc lại làm gì, đến tai con trai ông lại không hay". Được nhặt lá đa làm con trâu, ngước lên định khoe ông, nghe bà Thêu nhắc đến chú, sợ hãi nhìn về phía con đò buộc dưới bến chỗ gốc đa, tưởng như chú đang bước từ phía ấy lên, khuôn mặt đỏ bừng tức giận.
Được ở với ông từ lúc còn ẵm ngửa. Bố mẹ đi vớt củi trôi sông, gặp lũ cuốn không tìm thấy xác. Ông nội đón Được về nuôi. Ông làm nghề chèo đò, gửi Được ở nhờ hàng xóm nhưng Được cứ a ả khóc không ai dỗ được, ông đành lót áo làm chăn đặt Được nằm dưới đò. Vậy mà Được không khóc nữa, tròn xoe mắt nhìn trời, nhìn khách đi đò lên xuống. Mấy bác, mấy cô đang nuôi con nhỏ, hàng ngày chở rau dưa qua sông bán rồi mua các thức bên kia sông về bán lại thương Được, cho Được bú những giọt sữa thừa. Được lớn lên, phổng phao và ngoan ngoãn. Con nhà nghèo, côi cút, bé tí đã biết quét lá về đun, thổi nồi cơm, đun ấm nước. Lớn thêm tí nữa, những hôm ông ốm nằm ở nhà, nghe khách gọi "đò ơi..." từ bên phía quán nước vọng lại, Được đã biết chèo đò sang đón. Bà Thêu biết ông ốm, gửi cho ông mấy quả trứng gà, dặn Được nấu cháo trứng, hái thêm nắm lá tía tô bỏ vào cháo, ông ăn nhanh khỏe. Ngày nào bà cũng hỏi thăm ông đã đỡ hơn tí nào chưa, đã ngồi dậy được chưa, bữa ăn được lưng bát cháo không nhưng khi Được nói, "bà ngồi lên đò, cháu chở bà sang thăm ông rồi lại chở bà về" thì bà từ chối. Được tò mò hỏi: "Bà sợ chú cháu à?", bà chỉ cười buồn rồi lắc đầu.
Được nghĩ bà sợ chú thật. Một năm nào đấy chưa xa lắm, Được vẫn còn nhớ, ông bị cảm, nằm mấy ngày liền không dậy được. Được sang gọi chú thím, chú thím bảo cứ về nấu cháo cho ông ăn khắc khỏi, người quê toàn thế, làm gì phải quýnh lên. Được chèo đò sang quán tìm bà Thêu. Chẳng kịp đội nón, bà tất tả xuống đò theo Được. Ông đang ngồi xông nồi nước lá bà đun, nồi cháo trên bếp gần sôi thì chú tới. Chẳng biết chú nghe ai nói, xông huỳnh huỵch vào nhà, chỉ thẳng tay đuổi bà Thêu: "Bà đã bỏ bố tôi, bước chân đi khỏi cái nhà này một lần thì làm gì có quyền được trở lại. Bà mà còn đeo bám bố tôi, cẩn thận tôi sang phá cái quán". Nồi cháo sôi trào làm bếp rạ tắt ngúm, khói xộc lên cay xè mắt. Ông tung chăn ra định chạy theo bà mà không gượng dậy nổi.
Chú bưng nồi nước xông hất ra ngõ rồi nhỏ toẹt một bãi nước bọt sau khi buông lời sắc hơn con dao bổ cau của bà Thêu:
- Già rồi còn định về để chia lại mảnh đất hay gì. Cả ông nữa, ông mà lằng nhằng với bà ấy thì không bố con gì hết. Đúng là mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi mẹ liếm lá dọc đàng...
Ông ho. Tiếng ho như xé phổi. Được ôm lấy ông, sợ ông như loài chim mà ông hay kể, ho giữa cánh đồng trong những đêm trăng thanh vắng đến giọt máu cuối cùng rồi chết khô.
Từ ngày hôm ấy, thi thoảng, chú thím lại sai thằng cò út mang đồ sang cho ông, lúc thì khúc đầu cá nấu dưa, khi thì mấy miếng thịt gà, thịt vịt. Gọi là thịt nhưng là dăm miếng cổ, cánh, đầu, chân. Thằng cò nhắc đi nhắc lại, bố nó dặn mang sang cho ông nhắm rượu. Chú thím không biết ông đã rụng mấy chiếc răng, chỉ ăn cơm nát, ngụm canh là xong bữa.
Từ hôm ấy, bà Thêu không bước chân qua sông một lần nào nữa. Bà ngồi trong quán lá, lặng im và mỗi ngày một quắt queo, già đi như những cành đa khô. Chỉ có nước chè xanh bà hãm vẫn cứ xanh ngát và chát thơm.
Mãi đến khi bà Thêu mất, Được mới biết chuyện của ông và bà. Bà Thêu là vợ trước của ông, cưới nhau trước ngày ông lên đường nhập ngũ. Chẳng biết vì lý do nhầm lẫn như thế nào mà một năm sau, ông có giấy báo tử. Bà Thêu chăm sóc bố mẹ chồng còn hơn khối cô con gái nhà khác trong làng. Tận đến khi bố mẹ chồng già yếu, muốn bà có chỗ nương tựa trước khi nhắm mắt xuôi tay bèn đứng ra gả con dâu cho một người đàn ông hiền lành, thật thà, cũng là chỗ quen biết với ông bà ở làng bên cùng lời dặn dò sau này ông bà khuất núi, cái nhà này là của để dành ông bà tặng lại bà Thêu. Bà cưới chồng được mấy tháng thì ông bà cố lần lượt qua đời, bà vẫn thường xuyên chạy qua chạy lại nhà cũ hương khói. Một năm sau thì ông nội Được trở về. "Ván đã đóng thuyền", có thương đến đâu thì cũng đành nuốt ngược lại vào bụng. Sợi duyên đã đứt lìa, làm sao nối lại được. Bà trao lại cho ông chiếc chìa khóa nhà cũ. Ông cũng lấy vợ, sinh con. Chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra, người chồng sau của bà lên đường nhập ngũ rồi không về. Chỉ một nắm xương tàn cũng không tìm được. Bà nội mất sau khi sinh chú, dân làng cứ ngỡ ông nội và bà Thêu sẽ lại về với nhau. Nhưng bà ở vậy, dành hết năm tháng đi tìm hài cốt của chồng cho đến khi gối mỏi, mắt mờ không thể đi nổi nữa. Ông cũng "gà trống nuôi con" từ lúc con còn đỏ hỏn, đêm khát sữa khóc rạc cả người. Về già lại nuôi đứa cháu cút côi lớn lên nhờ giọt sữa người ta thương tình san sẻ. Nghe tiếng kèn đám ma bà Thêu bên kia sông vọng sang, Được thấy khuôn mặt chú giãn ra nhẹ nhõm.
Bà Thêu mất, cái quán lá người khác dọn hàng ra bán. Vẫn những thức ấy nhưng ông không uống chè xanh nữa, cũng chẳng vào quán ngồi. Rồi ông đổ bệnh. Chú thím bảo chạy chữa cho ông tốn kém lắm, bán cả mảnh đất, ngôi nhà ông cháu Được đang ở cũng chẳng đủ. Ông nuôi Được từ bé, giờ ông ốm, Được phải có trách nhiệm. Thím thậm thụt bảo Được chỉ cần đi lấy chồng ngoại quốc, Được vừa đổi đời, vừa có món tiền kha khá cho ông chữa bệnh. Nhưng Được không muốn xa ông. Thím nguýt: "Ở lại thì ông cũng không sống được, tiền đâu mà chữa. Lấy chồng giàu, có tiền, thích lúc nào về thăm chẳng được". Người làng kéo tay Được bảo sắp mở đường qua nhà, đất đang tăng giá vùn vụt, đừng nghe chú thím lừa phỉnh. Miếng đất của ông đã cắt chia cho chú thím phần nhiều, chỉ còn lại mảnh bé bé cho bố mẹ Được. Bố mẹ Được chết rồi nên sau này là phần của Được. Thím chống nạnh xỉa xói người làng, tru tréo họ là lũ thất nhân chia rẽ máu mủ, không để cháu cứu ông nội. Chờ bán được đất thì cha già đã xanh cỏ. Nghe những lời nanh nọc ấy, ông lịm dần, không nói được nữa. Người ta bảo bệnh của ông bây giờ chỉ bệnh viện lớn may ra mới chữa được. Được gật đầu với sự mối mai của người bạn thím. Chú thím nhận số tiền gả bán Được, quên cả dặn dò Được những lời mà người ta thường dặn con gái, cháu gái khi về nhà chồng. Được qua sông.
Mà nào có phải chỉ sang sông, Được còn qua đèo, qua suối, đến một nơi chỉ có thứ tiếng nói xa lạ, những ánh mắt soi mói nhìn Được như nhìn một món hàng và những trận đòn thừa sống thiếu chết. Ngày Được sang sông, chú thím thuê xe đưa ông lên viện. Ánh mắt vô hồn của ông trong phút chốc như lóe lên rồi từ đuôi mắt răn reo, giọt nước mắt đục ngầu lăn xuống gò má hóp lại teo tóp. Được cũng đánh rơi giọt nước mắt lúc đò ra đến giữa dòng.
Từ đỉnh trời, hình như trăng đang dần dần hạ xuống. Trăng biết Được về nên an ủi Được đấy chăng? Sao Được thấy màu trăng rơi xuống hệt như màu nước chè xanh rót ra từ chiếc tích hãm chè của bà Thêu. Được ngửa cổ, uống tràn hồn mình ánh trăng ấy. Thấy những vết thương từ gan ruột đến những vết bầm tím trên da thịt như dịu đi. Được trào nước mắt. Nước mắt cũng xanh ngan ngát và thanh thanh, chát chát…
Được cũng về với ông rồi. Ai đó đang sa sả vào mặt thím. Phải lập bàn thờ cúng cho đàng hoàng. Người chết trẻ, lại chết oan uổng là linh thiêng lắm. Đứa cháu nhà anh trai chồng này hợp tuổi với hai vợ chồng. Cứ thành tâm thờ cúng sẽ được ban lộc, làm nên ăn ra. Được muốn thoát ra khỏi căn phòng này, thoát khỏi sợi dây vô hình bằng nhang khói, bằng lời cầu khấn đậm đặc những mưu cầu, toan tính.
Một ánh trăng lọt qua khe cửa, đưa Được trở về bến sông.
Trăng sà xuống lòng sông. Màu trăng ngọt như sữa. Bà Thêu bước ra từ trăng. Bà rót nước chè xanh vào chiếc khăn, lau những vết xước trên mặt Được. Da Được thơm hương chè thanh lành. Bà rót nước chè cho Được uống. Ruột gan Được dịu lại. Những vết thương chồng chất như cũng lành hẳn, thôi tấy buốt. Đã nghe rõ tiếng mái chèo rẽ dòng trăng mà tới. Ông kìa. Không chờ đò cập bến, Được lội ào xuống nước bước tới. Nước sông mát lành, dịu dàng vỗ về Được. Bà Thêu cũng lên đò. Con đò lướt giữa dòng trăng mênh mông. Trăng treo trên mũi đò, vằng vặc, lung linh.
Được nằm xuống, khép mắt ngủ giữa bồng bềnh sóng nước. Trăng sóng sánh vuốt lên tóc, hòa vào lời ông kể chuyện, hòa vào lời bà Thêu ru Được khe khẽ.
Phía chân trời, trăng mở lòng ôm trọn con đò mỏng mảnh về neo nơi bến đợi.