Viêm màng não gia tăng vào mùa đông, chuyên gia chỉ cách nhận biết
Ảnh minh hoạ
Khi thời tiết chuyển lạnh, số ca viêm não và viêm màng não do virus, vi khuẩn có xu hướng gia tăng. Triệu chứng ban đầu lại dễ nhầm lẫn với các bệnh lý hô hấp thông thường.
Theo số liệu của Bộ Y tế, từ cuối năm 2024 đến giữa tháng 10/2025, cả nước ghi nhận 306 trường hợp viêm não do virus, trong đó riêng giai đoạn từ giữa tháng 9 đến giữa tháng 10/2025 đã có 49 ca mắc mới. Đáng chú ý, viêm màng não do vi khuẩn não mô cầu ghi nhận 84 ca, cao gấp khoảng 6 lần so với cùng kỳ năm trước, với hai trường hợp tử vong.
Thời tiết cuối năm thay đổi thất thường, gây suy giảm khả năng miễn dịch. Một số vùng có mưa lớn khiến người dân ở trong không gian kín nhiều hơn, tăng nguy cơ lây nhiễm chéo. Việc này cho thấy cần cảnh giác phòng bệnh trong cộng đồng, đặc biệt với trẻ nhỏ do có hệ miễn dịch chưa hoàn thiện.
TS.BS Đào Hữu Nam, Trưởng khoa Điều trị tích cực, Trung tâm Bệnh Nhiệt đới, Bệnh viện Nhi Trung ương, cho biết viêm màng não là tình trạng viêm các màng bao bọc não và tủy sống, có thể do nhiều tác nhân gây ra, phổ biến nhất là virus và vi khuẩn.
Trong đó, viêm màng não do virus thường có tiên lượng nhẹ hơn, nhiều trường hợp có thể tự hồi phục nếu được theo dõi và điều trị đúng. Ngược lại, viêm màng não do vi khuẩn thường diễn tiến nhanh, phản ứng viêm nặng, dễ kèm nhiễm khuẩn huyết và có thể đe dọa tính mạng nếu không được cấp cứu kịp thời.
Các bệnh truyền nhiễm như cúm, viêm não Nhật Bản, sởi, quai bị, herpes simplex, sốt xuất huyết, thủy đậu, tay chân miệng, não mô cầu, phế cầu, Hib... đều có thể gây viêm não hoặc viêm màng não. Bệnh có thể để lại nhiều di chứng nặng nề như liệt, điếc, suy giảm trí nhớ, co giật, động kinh, rối loạn thần kinh.

TS.BS Đào Hữu Nam, Trưởng khoa Điều trị tích cực, Trung tâm Bệnh Nhiệt đới, Bệnh viện Nhi Trung ương
Nguy cơ mắc viêm màng não do vi khuẩn cao hơn ở trẻ có hệ miễn dịch suy giảm, trẻ sinh non, trẻ từng chấn thương sọ não hoặc đang có các ổ nhiễm khuẩn lân cận như viêm tai giữa, viêm mũi xoang. Trong những trường hợp này, vi khuẩn có thể xâm nhập vào máu hoặc lan trực tiếp từ ổ viêm kế cận lên hệ thần kinh trung ương, khiến bệnh diễn biến nặng. Đặc biệt, nhóm trẻ suy giảm miễn dịch không chỉ dễ mắc bệnh hơn mà còn có nguy cơ biến chứng cao hơn.
Triệu chứng viêm màng não thay đổi theo lứa tuổi, khiến việc nhận biết không phải lúc nào cũng dễ dàng. Ở trẻ lớn, bệnh thường biểu hiện khá điển hình với tam chứng màng não gồm đau đầu dữ dội, nôn ói và rối loạn ý thức, kèm sốt cao, mệt mỏi, lơ mơ. Trong khi đó, ở trẻ nhũ nhi và trẻ sơ sinh, các dấu hiệu lại thường mờ nhạt, không đặc hiệu.
Trẻ có thể chỉ sốt nhẹ hoặc thậm chí hạ thân nhiệt, quấy khóc, bỏ bú, ngủ li bì, thóp phồng, thở nhanh hoặc biểu hiện như một tình trạng nhiễm trùng thông thường. Chính sự kín đáo này khiến viêm màng não ở trẻ sơ sinh dễ bị phát hiện muộn nếu gia đình không theo dõi sát.
Các chuyên gia nhấn mạnh, tiêm chủng đầy đủ và đúng lịch là biện pháp phòng bệnh hiệu quả và quan trọng hàng đầu. Hiện nay, nhiều tác nhân nguy hiểm gây viêm màng não có thể phòng ngừa bằng vắc xin như Haemophilus influenzae type b (Hib), phế cầu hay não mô cầu – những vi khuẩn thường gây viêm màng não nặng ở trẻ nhỏ.
Riêng với viêm màng não ở trẻ sơ sinh, việc chăm sóc và theo dõi thai kỳ của người mẹ đóng vai trò then chốt. Phụ nữ mang thai cần khám thai định kỳ, sàng lọc và điều trị các nhiễm khuẩn trong thai kỳ, đặc biệt là liên cầu khuẩn nhóm B, tác nhân có thể lây từ mẹ sang con trong quá trình sinh nở. Điều trị dự phòng kịp thời cho mẹ giúp giảm đáng kể nguy cơ nhiễm trùng nặng và viêm màng não ở trẻ sơ sinh.
Về chẩn đoán, viêm màng não được xem là một cấp cứu y khoa. Xét nghiệm quan trọng nhất là chọc dò thắt lưng để lấy dịch não tủy, qua đó xác định tình trạng viêm và định hướng nguyên nhân do vi khuẩn hay virus. Cấy máu cũng có giá trị trong phát hiện nhiễm trùng huyết đi kèm. Chụp cắt lớp vi tính sọ não không phải là xét nghiệm thường quy cho mọi trường hợp nghi ngờ viêm màng não, nhưng có thể được chỉ định trong một số tình huống nhằm đánh giá an toàn trước khi chọc dò hoặc loại trừ các bệnh lý khác như xuất huyết hay nhồi máu não.
Để giảm nguy cơ mắc bệnh, ngoài tiêm chủng, cha mẹ và người chăm sóc cần chú trọng giữ vệ sinh môi trường sống, đảm bảo ăn chín uống sôi, rửa tay thường xuyên và hạn chế tiếp xúc với nguồn lây nhiễm. Khi trẻ xuất hiện các dấu hiệu bất thường như sốt, nôn, quấy khóc nhiều, lơ mơ hoặc thay đổi hành vi, đặc biệt trong giai đoạn giao mùa, cần nhanh chóng đưa trẻ đến cơ sở y tế để được thăm khám kịp thời, tránh để bệnh diễn tiến nặng và gây ra những hậu quả đáng tiếc.