Bạo lực giới - góc nhìn từ vấn đề tảo hôn và hôn nhân cận huyết

Bài, ảnh: Phạm Hiền (Ban Dân tộc và Tôn giáo, Ủy ban TW MTTQ Việt Nam)
14/08/2025 - 11:25
Bạo lực giới - góc nhìn từ vấn đề tảo hôn và hôn nhân cận huyết

Hội LHPN xã Nậm Ban, huyện Nậm Nhùn (nay là xã Pa Tần, tỉnh Lai Châu) truyền thông, phát tờ rơi, vận động về giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết.

Theo kết quả điều tra mới nhất về thực trạng kinh tế - xã hội (KTXH) của 53 dân tộc thiểu số (DTTS) năm 2024, vẫn còn hơn 14,7% người DTTS tảo hôn và 3,66‰ người DTTS kết hôn cận huyết thống. Vấn đề cấp thiết này thực sự để lại những hậu quả tiêu cực gì và là biểu hiện của “bạo lực giới” như thế nào đối với phụ nữ và trẻ em gái?

Mặc dù bị cấm theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình, nhưng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống vẫn đang tồn tại một cách dai dẳng trong cộng đồng các DTTS ở Việt Nam.

Hiện còn hơn 14,7% người DTTS tảo hôn, trong đó tỷ lệ nữ là 15,76% và nam là 13,45%. Trong đó, ở một số nhóm DTTS đặc biệt cao như Mông 35,86%, Xinh Mun 29,3%, La Ha 27,18%, Gia Rai 24,8%; tỷ lệ kết hôn cận huyết thống là 3,66‰, trong đó ở một số nhóm DTTS còn cao như dân tộc Chăm hơn 48‰, Mạ 28,98‰, Thổ 15‰, Mnông 13,07‰, Sán Chay 9,3‰...

Theo số liệu công bố mới nhất về Kết quả điều tra, thu thập thông tin về thực trạng KTXH của 53 DTTS năm 2024 (Bộ Dân tộc và Tôn giáo, 2025), mặc dù tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết đã giảm hơn so với cuộc điều tra 2019 nhưng vẫn còn tồn tại dai dẳng ở vùng đồng bào DTTS và miền núi.

Hậu quả để lại dưới lăng kính "giới"

Bạo lực giới - góc nhìn từ vấn đề tảo hôn và hôn nhân cận huyết- Ảnh 1.
Bạo lực giới - góc nhìn từ vấn đề tảo hôn và hôn nhân cận huyết- Ảnh 2.

Hiện còn hơn 14,7% người DTTS tảo hôn, trong đó tỷ lệ nữ là 15,76% và nam là 13,45%.

Xét về yếu tố khoa học, việc kết hôn sớm, mang thai và sinh đẻ trong lứa tuổi vị thành niên, khi cơ thể sinh học của người mẹ chưa phát triển hoàn thiện để mang thai và sinh con gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe bà mẹ, sự phát triển bình thường của thai nhi và trẻ sơ sinh. Đây là nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em DTTS, tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ em DTTS dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi, tăng tỷ lệ tử vong của bà mẹ DTTS liên quan đến thai sản.

Nhằm góp phần chuyển đổi nhận thức, tác động thay đổi hành vi, gia tăng khả năng tiếp cận thông tin và huy động sự tham gia của cộng đồng trong thực hiện ngăn ngừa, giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết trong vùng đồng bào DTTS và miền núi, trong Chương trình MTQG phát triển KTXH vùng DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn 1: 2021-2025 đã có riêng một Tiểu Dự án 2 (thuộc Dự án 9) về "Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào DTTS và miền núi".

Trong triển khai thực hiện, theo báo cáo của Ban Chỉ đạo TW các Chương trình MTQG giai đoạn 2021-2025, tính đến tháng 8/2025, sau 5 năm triển khai Tiểu dự án 2 đã cung cấp hơn 1,23 triệu tài liệu, tập huấn về kiến thức, kỹ năng truyền thông, vận động, tư vấn pháp luật liên quan về hôn nhân và gia đình; tổ chức 10.736 hội nghị lồng ghép, hội thảo, tọa đàm, giao lưu tuyên truyền; 2.351 hội thi tìm hiểu về pháp luật về giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống; tổ chức 932 lớp bồi dưỡng chuyên đề với 721.493 lượt công chức làm công tác dân tộc, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên; nhân rộng 1.989 mô hình về ngăn ngừa, giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào DTTS và MN.

Với hôn nhân cận huyết, thực tế và nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra hệ quả dẫn đến các bệnh di truyền như tăng nguy cơ mắc các bệnh di truyền do cả bố và mẹ đều mang gen bệnh lặn, như bệnh tan máu bẩm sinh, hồng cầu liềm, bạch tạng và các bệnh về máu khác; trẻ sinh ra dễ gây dị tật bẩm sinh như sứt môi, hở hàm ếch, các vấn đề về xương khớp, và các dị tật khác cao hơn so với các cặp vợ chồng không cận huyết thống; trẻ cũng có thể chậm phát triển về thể chất, trí tuệ, và có nguy cơ bị thiểu năng trí tuệ, chậm nói, chậm đi, giảm tuổi thọ.

Đặc biệt, hôn nhân cận huyết tác động đến chất lượng dân số như suy thoái giống nòi (hôn nhân cận huyết thống làm giảm sự đa dạng di truyền, làm suy yếu sức khỏe và khả năng thích nghi của cộng đồng); tạo gánh nặng kinh tế về chi phí chăm sóc, điều trị các bệnh di truyền và dị tật bẩm sinh, ảnh hưởng đến kinh tế và cản trở sự phát triển của xã hội…

Ngoài ra, tảo hôn và hôn nhân cận huyết tuy là hai hành vi khác nhau về hình thức, nhưng có điểm chung rõ rệt đó là: Đa số cùng diễn ra phổ biến ở vùng DTTS; Cùng vi phạm quyền con người, đặc biệt là quyền của phụ nữ và trẻ em gái; Cùng bắt nguồn từ những chuẩn mực giới bất bình đẳng và cấu trúc xã hội phân biệt đối xử với phụ nữ và cùng là biểu hiện điển hình của bạo lực giới mang tính hệ thống.

Cụ thể, khi đặt trong cùng hệ quy chiếu về quyền lực, giới tính, văn hóa và cơ hội lựa chọn, việc tảo hôn và hôn nhân cận huyết thường cùng xuất phát từ việc tước đoạt quyền tự quyết của phụ nữ và trẻ em gái. Cả tảo hôn và hôn nhân cận huyết đều diễn ra mà không có sự đồng thuận thực sự của người nữ trong cuộc: Với tảo hôn, các em gái bị buộc kết hôn từ 13 đến 15 tuổi, khi chưa đủ khả năng nhận thức hoặc phản kháng. Với hôn nhân cận huyết, người nữ bị ép buộc kết hôn với họ hàng gần. Đây chính là biểu hiện của bạo lực giới vô hình - khi quyền kiểm soát cơ thể, hôn nhân, tương lai của phụ nữ bị nằm trong quyền quyết định của cộng đồng nam giới (cha, ông, anh trai, già làng, trưởng bản…).

Nguyên nhân đan xen, tạo ra "vòng tròn bạo lực"

Ở một số cộng đồng, đặc biệt các nhóm DTTS sống biệt lập như Mông, La Ha, Xinh Mun, tỷ lệ tảo hôn trùng lặp với hôn nhân cận huyết là phổ biến. Chúng ta có thể lấy một ví dụ điển hình: Trẻ em gái bị ép kết hôn với anh họ và bé gái đó sẽ chính thức bước vào một vòng tròn của bạo lực giới với các cơ chế sau:

(1) Bị rút ngắn tuổi thơ, tước quyền học tập: Tảo hôn thường khiến trẻ em gái phải bỏ học sớm, mất cơ hội phát triển kỹ năng, kiến thức, tiếng nói xã hội. Khi thiếu giáo dục, phụ nữ ít khả năng tự bảo vệ trước bạo lực, dễ chấp nhận vai trò lệ thuộc. Hôn nhân cận huyết thường càng làm gia đình khép kín, hạn chế tiếp xúc bên ngoài, củng cố vòng "thiếu hiểu biết, từ đó sẽ bị lệ thuộc, dễ chấp nhận bạo lực.

(2) Gia tăng nguy cơ bạo lực gia đình: Tảo hôn dẫn đến hôn nhân khi cả hai bên chưa trưởng thành tâm lý, dễ mâu thuẫn, xung đột. Trong hôn nhân cận huyết, các mối quan hệ gia đình, họ hàng đan xen chặt, nên bạo lực bị che giấu ("chuyện nhà, để nhà giải quyết"). Khi này, phụ nữ DTTS bị bạo lực khó tìm sự giúp đỡ vì vừa là nạn nhân, vừa bị ràng buộc huyết thống với người gây bạo lực.

(3) Ràng buộc kinh tế và quyền lực bất bình đẳng: Từ việc kết hôn sớm, phụ nữ không có nghề nghiệp ổn định, bị phụ thuộc kinh tế vào chồng hoặc gia đình chồng. Trong hôn nhân cận huyết, tài sản và đất đai vẫn nằm trong tay gia tộc, phụ nữ ít có quyền định đoạt; khi bị phụ thuộc kinh tế, sẽ khó thoát bạo lực, từ đó tiếp tục vòng lặp bất bình đẳng… Hệ quả lâu dài là chính các trẻ em gái DTTS sẽ trở thành người mẹ, người chị tiếp tục không có tiếng nói, tiếp tục chấp nhận các cuộc hôn nhân sắp đặt cho con cháu mình. Chuỗi bất bình đẳng giới này lặp lại một cách "êm đềm nhưng bền vững" nếu không có can thiệp bền vững.

Bất bình đẳng giới được hợp thức hóa bởi vỏ bọc "truyền thống"

Trong nhiều cộng đồng DTTS, tảo hôn và hôn nhân cận huyết đều được gắn, được che chắn bởi các phong tục, tập quán cũ như "tục cha ông", "lệ làng" để thực hành các "tục bắt vợ", "nối dõi tông đường", "không gả con ra ngoài". Vì vậy, tảo hôn cũng thường được coi là "chuẩn mực" để khẳng định trưởng thành, "đúng tuổi lấy vợ, lấy chồng" theo quan niệm cộng đồng, bất chấp luật pháp quy định.

Bạo lực giới - góc nhìn từ vấn đề tảo hôn và hôn nhân cận huyết- Ảnh 3.
Bạo lực giới - góc nhìn từ vấn đề tảo hôn và hôn nhân cận huyết- Ảnh 4.

Hoạt động truyền thông giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết đã và đang chú trọng huy động sự tham gia tích cực của cộng đồng, đặc biệt là nam giới.

Còn hôn nhân cận huyết được giải thích bằng lý do "giữ dòng máu thuần", "giữ đất trong họ" hoặc "giữ của cải cho gia đình". Điều này có nghĩa là có được sự đồng thuận xã hội ngầm (con gái lấy chồng sớm là tốt, lấy người trong cùng dòng họ thì an tâm); Và hầu hết, điểm quan trọng là các khái niệm "truyền thống" ở đây được hiểu và vận dụng một cách chọn lọc - giữ lại những yếu tố củng cố quyền lực gia tộc, duy trì sự kiểm soát của nam giới và hạn chế vai trò của phụ nữ.

Bên cạnh đó, do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau dẫn đến trình độ dân trí ở vùng DTTS còn chưa đồng đều, đồng bào còn thiếu hiểu biết về pháp luật, về quyền cá nhân và hệ thống quyền lực gia trưởng tồn tại lâu dài… Chính các yếu tố này biến bạo lực giới (từ tảo hôn, hôn nhân cận huyết) thành một điều "bình thường", làm mờ ranh giới giữa vi phạm pháp luật và những phong tục, tập quán cũ/có hại đã không còn phù hợp.

Như vậy, tảo hôn và hôn nhân cận huyết, dưới góc nhìn bình đẳng giới, không đơn thuần là hành vi vi phạm pháp luật mà còn là biểu hiện của bạo lực giới được duy trì bởi hệ thống văn hóa, xã hội và sự thiếu vắng "tiếng nói" của phụ nữ và trẻ em gái. Chỉ khi mọi trẻ em gái và phụ nữ ở vùng DTTS được sống, học tập và phát triển trong môi trường không bạo lực, được tôn trọng và có quyền lựa chọn tương lai của chính mình, thì khi đó, chúng ta mới có thể nói về một xã hội thực sự công bằng và nhân văn.

Với Dự án 8 "Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết với phụ nữ và trẻ em" (thuộc Chương trình MTQG vùng DTTS), trong giai đoạn 5 năm (2021-2025) tại 40 tỉnh/thành, Hội LHPN các cấp tập trung thực hiện có hiệu quả Nội dung 1 của Dự án với việc duy trì, thành lập 10.393 tổ/nhóm truyền thông cộng đồng; xây dựng 14.404 mô hình truyền thông cộng đồng; phát hành hơn 221,9 ngàn tài liệu/ấn phẩm truyền thông về bình đẳng giới, hỗ trợ theo gói cho 10.345 bà mẹ sinh đẻ an toàn và chăm sóc tại nhà sau sinh… nhằm nâng cao nhận thức về bình đẳng giới, thay đổi "nếp nghĩ, cách làm", xóa bỏ định kiến giới và tập tục không còn phù hợp, trong đó có tảo hôn và hôn nhân cận huyết tại vùng đồng bào DTTS & MN.

Ý kiến của bạn
(*) Nội dung bắt buộc cần có
0 bình luận
Xem thêm bình luận

Nhập thông tin của bạn

Đọc thêm