pnvnonline@phunuvietnam.vn
Công bố Báo cáo rà soát độc lập 10 năm thực hiện Luật Bình đẳng giới
Thứ trưởng Bộ LĐ,TB&XH Nguyễn Thị Hà (phải) và Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam Naomi Kitahara điều hành Hội thảo công bố Báo cáo rà soát độc lập 10 năm thực hiện Luật Bình đẳng giới
Thực hiện bình đẳng giới đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức
Ngày 24/9, tại Hà Nội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ,TB&XH) đã phối hợp với Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) tại Việt Nam tổ chức Hội thảo công bố Báo cáo rà soát độc lập 10 năm thực hiện Luật Bình đẳng giới.
Việt Nam là một trong những quốc gia tham gia ký kết nhiều văn kiện quốc tế về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ. Năm 2006, Việt Nam ban hành Luật Bình đẳng giới, trong đó yêu cầu các cơ quan Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện trách nhiệm của mình trong quản lý nhà nước về bình đẳng giới.
Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ LĐ,TB&XH Nguyễn Thị Hà cho biết, kể từ khi Luật ra đời và có hiệu lực thi hành, hệ thống chính sách, pháp luật về bình đẳng giới không ngừng được bổ sung và hoàn thiện, góp phần hình thành hành lang pháp lý vững chắc về bình đẳng giới. Sau 10 năm thi hành Luật bình đẳng giới, nhiều thành tựu đáng tự hào về bình đẳng giới của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế đánh giá cao và ghi nhận. Điển hình như tỷ lệ đại biểu Quốc hội nữ khóa XIV đạt 26,8%, cao hơn so với mức trung bình 19% của các quốc gia Châu Á và 25% của toàn cầu. Tỷ lệ học sinh nam và nữ ở các cấp bậc học luôn ngang bằng nhau. Cơ cấu giới tính phân bố trong lực lượng lao động của Việt Nam tương đối cân bằng với tỷ trọng 52,7% nam giới và 47,3% nữ giới tham gia lực lượng lao động. Tỷ lệ mẹ chết đã giảm từ 69 ca trên 100.000 ca sinh sống vào năm 2009 xuống 46 ca trên 100.000 trẻ sinh sống năm 2019.
"Trong suốt 10 năm thực hiện Luật Bình đẳng giới, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương đạt được nhiều tiến bộ liên quan tới bình đẳng giới. Chúng tôi đã nhìn thấy những thành tựu đáng kể về thúc đẩy quyền và sự lãnh đạo của phụ nữ, đặc biệt là trong lĩnh vực y tế, giáo dục và thông qua việc đẩy mạnh khung pháp lý và thể chế", bà Naomi Kitahara -Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam - chia sẻ.
Tuy nhiên, việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức. Thực tế, cả nam giới và phụ nữ đều chịu những tác động từ bất bình đẳng giới nhưng phụ nữ và trẻ em gái vẫn là nhóm đối tượng chịu nhiều thiệt thòi hơn. Mặc dù chiếm gần một nửa lực lượng lao động quốc gia, song do thiếu kỹ năng và ít được đào tạo, chất lượng việc làm của lao động nữ còn chưa ổn định và thiếu bền vững do lao động nữ thường tập trung trong các lĩnh vực đòi hỏi trình độ chuyên môn thấp hoặc những công việc có tính bền vững và mức độ ổn định không cao. Thu nhập bình quân tháng của lao động nữ chỉ bằng khoảng 80% so với lao động nam. Sự khác biệt về tuổi nghỉ hưu đã rút ngắn thời gian được tham gia đào tạo, bồi dưỡng, hạn chế cơ hội đối với nữ giới trong quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ nữ. Khoảng cách về thu nhập, về tiếp cận các dịch vụ cơ bản, đời sống tinh thần giữa phụ nữ các vùng miền, ngành nghề, phụ nữ dân tộc thiểu số, phụ nữ là người khuyết tật, phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn ngày càng gia tăng.
Đảm bảo công tác thi hành Luật được tốt hơn
Bộ LĐ,TB&XH đã xây dựng Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật Bình đẳng giới. Báo cáo đã được nhóm chuyên gia quốc tế và trong nước triển khai xây dựng.
Báo cáo tập trung đánh giá sự thống nhất của Luật Bình đẳng giới với những tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người và các bộ luật, luật khác của Việt Nam. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện Luật trong giai đoạn 2007 - 2019, làm rõ những thành tựu và tồn tại, hạn chế, từ đó đưa ra những khuyến nghị cho việc sửa đổi Luật và đảm bảo công tác thi hành Luật được tốt hơn.
"Báo cáo rà soát độc lập 10 năm thi hành Luật Bình đẳng giới được hoàn thành với những đánh giá, nhận định khách quan và có nhiều giá trị trong bối cảnh Luật Bình đẳng giới cần được xem xét sửa đổi trong giai đoạn tới đây", Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà nhấn mạnh.
Những thách thức đòi hỏi cần phải xây dựng các chính sách và hành động cụ thể để giữ vững những thành tựu đã đạt được, đồng thời khắc phục những vấn đề giới còn đang tồn tại cũng như những vấn đề giới nảy sinh trong thời gian tới. Nỗ lực này thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc đạt được Mục tiêu phát triển bền vững số 5 về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ. Bình đẳng giới không chỉ là quyền cơ bản của con người, mà còn là nền tảng cần thiết cho một xã hội Việt Nam hòa bình và thịnh vượng. Nếu không giải quyết vấn đề về bình đẳng giới, Việt Nam sẽ không có cách nào đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững vào năm 2030.
Tại Hội thảo, lãnh đạo Bộ LĐ,TB&XH và UNFPA đã kêu gọi nhiều hơn nữa những nỗ lực chung từ phía các bộ, ban, ngành của Chính phủ, các tổ chức xã hội, khu vực tư nhân và các cơ quan của Liên hợp quốc trong việc thúc đẩy tiến trình hướng tới phát triển bền vững vào năm 2030, để không ai bị bỏ lại phía sau.
Bàn về ưu tiên thúc đẩy trong nhiệm kỳ 2021-2026 sửa đổi Luật Bình đẳng giới, chuyên gia giới Nguyễn Đức Lam đã đưa ra nhiều khuyến nghị: Cần thừa nhận và quy định về phân biệt đối xử gián tiếp; xác định các hành vi bị cấm và làm rõ hơn các chế tài. Bên cạnh đó, cần xác định rõ các hành vi có hại dẫn đến bất bình đẳng giới như coi trọng con trai, lựa chọn giới tính vì định kiến giới, quấy rối tình dục, tảo hôn hoặc hôn nhân cưỡng chế. Cần tăng mức xử phạt bằng tiền đối với các vi phạm bình đẳng giới, cân nhắc quy định các hành vi có hại là phạm tội hình sự.
Bên cạnh đó, theo các đại biểu, cần bổ sung các quy định rõ ràng, mạnh mẽ hơn về nguyên tắc bình đẳng giới trong Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức chính quyền địa phương nhằm đảm bảo tốt hơn lồng ghép giới trong tổ chức, hoạt động của cơ quan dân cử. Cần sửa đổi, bổ sung Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho thống nhất với Luật Bình đẳng giới, đảm bảo lồng ghép giới phải được tiến hành đối với mọi dự luật, pháp lệnh. Về dài hạn, cần thành lập cơ quan cấp bộ về bình đẳng giới hoặc các quyền bình đẳng giới nhằm đảm bảo bình đẳng giới được ưu tiên hơn trong các mục tiêu chính trị và nguồn lực tài chính.