Chuyến xuyên Việt đầu tiên sau ngày đất nước thống nhất

Bút ký của Nguyễn Thị Ngọc Hải, nguyên Thư ký Tòa soạn Báo Phụ nữ Việt Nam
23/06/2025 - 07:39
Chuyến xuyên Việt đầu tiên sau ngày đất nước thống nhất

Các cựu phóng viên Báo PNVN trong chuyến công tác tại Đà Lạt

Công tác tại Báo Phụ nữ Việt Nam từ năm 1971 đến năm 1986, nhiều kỷ niệm trong thời gian làm tại Báo khiến tôi nhớ mãi không bao giờ quên. Trong đó có chuyến xuyên Việt ngay sau ngày đất nước thống nhất.

1. Nước mắt rơi ngày non sông liền một dải…

Suốt tháng 3, tháng 4/1975 qua báo, đài phát thanh, người Hà Nội nô nức theo tin từng địa phương được giải phóng theo đúng bản đồ đất nước xuôi dần về Nam: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Huế, Đà Nẵng, Phú Yên, Bình Định, Nha Trang Khánh Hòa… Và đến ngày 30/4 thì vỡ òa mong đợi.

Sáng ấy tôi đang rửa rau ở bể nước của khu tập thể (phố Thụy Khuê, Hà Nội) thì nghe tiếng hô dậy trời từ ngoài đường. Tôi chạy ra cổng để nhìn người dân nhảy múa, reo hò khắp nơi, tụ tập dưới loa phóng thanh đón chào tin tức: Giải phóng hoàn toàn miền Nam. Tôi khóc như bao người- nghĩ ngay đến em trai tôi không biết có còn sống để trở về sau bao năm đằng đẵng không tin tức? Hiện ra trong tôi là hình ảnh ngày tiễn em lên đường, tôi nhìn thấy nước mắt mẹ lã chã rơi cùng hơi nước bốc lên từ nồi canh đang sôi, lúc này mẹ đang nấu bữa ăn tiễn con ra trận.

Tôi nghĩ đến cha tôi (đại tá Nguyễn Chất, chỉ huy trưởng Quân sự Thành phố Hải Phòng) đang chỉ huy nơi đâu, đón tin thế nào? Những năm máy bay Mỹ ném bom bắn phá, ông thường đi vào các xóm ngõ kiểm tra chấp hành lệnh phòng không. Vì thế sau này khi ông mất, có đoàn của người dân vào xin viếng, họ nói: "Không có ông, chúng tôi chắc chết cả rồi!". Đó là xóm dân bố tôi ép lệnh sơ tán, đêm ấy máy bay Mỹ đã ném bom tan hoang khu họ ở.

Sau ngày 30/4/1975, Tòa soạn Báo PNVN thành lập ngay một đoàn công tác xuyên Việt bằng xe ô tô để phản ánh tình hình cả nước. Không sao nói hết được niềm vui háo hức mong chờ của tôi khi sắp được thấy miền Nam. Đoàn có 7 người do Tổng biên tập Nguyễn Thị Như làm trưởng đoàn và 4 phóng viên viết, 1 phóng viên ảnh, 1 lái xe.

Theo lịch trình, đoàn sẽ dừng ở mỗi tỉnh, thành vài ngày, thu lượm tin tức, gửi bài về Hà Nội xong mới lên đường đi tiếp. Ngày ấy chưa có Internet, điện thoại di động, bài vở viết tay xong, Tổng biên tập đọc ngay và gửi đường nào đưa ra Hà Nội nhanh nhất.

Những năm chiến tranh có nhiều kiểu truyền tin. Từng có cảnh bộ đội trên đường vào mặt trận, từ trên xe ném thư gửi gia đình xuống đường. Người dân nhặt được, sẽ dán tem bỏ vào thùng thư Bưu điện.

Khi đứng trên cầu Hiền Lương, câu ca "chiều nay ra đứng trông về, đôi mắt đượm tình quê" của ca sĩ Thương Huyền rung lên trong tim khiến tôi không khóc mà nước mắt tràn trề rơi xuống vạt áo.

2. Ấn tượng sắc màu

Điều trước tiên là… nắng ấm Đông Hà- Quảng Trị. Dù xa xa hàng rào Macnamara còn nhô bóng thép gai lên trời chiều, nhưng mọi vật đều sáng sủa hơn trong nắng và tôi giật mình khi thấy người dân ở đây mặc quần áo… sắc màu. Vì miền Bắc chiến tranh, chạy máy bay, đã quen với dép cao su, dép nhựa, quần áo nâu đen nghèo khổ. Càng đi sâu vào phía Nam, càng thấy nhiều màu rực rỡ.

Chúng tôi chia nhau đi nắm tình hình, nghe báo cáo và gặp gỡ phỏng vấn nhiều nhân vật anh dũng trong chiến tranh. Tới Đà Nẵng, tôi được phỏng vấn anh hùng Trần Thị Lý, từng xuất hiện trong thơ "Em là ai/Cô gái hay nàng tiên/Em có tuổi hay không có tuổi/Mái tóc em đây hay là mây là suối…". Chị Lý tiếp tôi khi vết thương vẫn còn đau, chị chỉ nằm chứ không ngồi lâu được.

Công việc căng thẳng và vội vã, chúng tôi làm việc không kể giờ giấc, không được phép mệt. Tôi nhớ chuyện chị Đạm Thư và tôi chia hai góc phòng để phỏng vấn hai nữ du kích. Vừa ngồi một lúc thì thấy nhân vật của chị Đạm Thư bước ra cửa. Lạ quá, tôi chạy ra hỏi - thì chị ấy ra hiệu: "Khẽ chứ. Để chị ấy… ngủ". Thì ra nhà báo đi suốt ngày đường mệt quá đã bất ngờ… ngủ gục - và nhân vật đang được phỏng vấn thấy thương quá nên khẽ bước ra.

Chúng tôi không đi theo Quốc lộ 1 vào thẳng Sài Gòn mà đến Phan Rang rẽ lên Đà Lạt. Đèo Ngoạn Mục với những cái ống dài của nhà máy trên sườn đồi hiện ra trong sương mờ ảo. Đèo dài và quanh co đến nỗi ngồi trên xe mà còn sợ hơn cả lúc qua đèo trên sông Nho Quế sâu thẳm ở Tây Bắc.

Nhưng Đà Lạt đẹp không ngờ trong xanh thắm thông reo, những biệt thự Pháp không cái nào giống cái nào. Thác Preen, hồ Xuân Hương... Trong đoàn, mọi người đều chủ quan vào Nam khí hậu nóng nên không ai mang theo áo ấm. Mùa Đông năm 1975 ấy, mọi người đều phải trải qua cái "lạnh chưa từng thấy". Tổng biên tập thấy tôi run lập cập, bèn dắt ra phố nhưng rồi áo ấm đắt quá không mua nổi, phải nhờ bên Thương nghiệp để cho một cái với giá "phân phối".

Ban đêm đi phố, tôi còn nhìn thấy đoàn của nhà văn Nguyễn Đình Thi có áo măng tô và vừa đi vừa nhai… ngô luộc, trò chuyện vui vẻ. Nếu ngày ấy có… điện thoại như bây giờ, tôi bấm mấy kiểu ảnh là thành… "lịch sử".

Ở Đà Lạt, tôi phỏng vấn một nữ nhân vật có số phận kỳ lạ. Bà là người duy nhất sống sót khi giặc Pháp đem bắn cả đoàn chiến sỹ, bà ngã vùi trong xác đồng đội và đến đêm khuya thì bò lết ra cửa rừng.

Bây giờ có dịp lên Đà Lạt, đi qua sườn đồi nhìn xuống nhiều ruộng rau bên dưới, tôi vẫn nhớ mang máng nhà bà phía đó- nơi bà ngồi kể lại với tôi câu chuyện rùng rợn.

3. Sài Gòn- bao điều ngạc nhiên

Tôi ở cùng Hiền và Lan- 2 cô gái thuộc Công đoàn Thành phố, tại tòa nhà tập thể cao tầng gần chợ Bến Thành. Tôi khai thác để viết về cô Trần Thị Hiền - người bị địch tra tấn dã man khi tranh đấu trong phong trào học sinh, sinh viên. Cô từng được nhà báo Mỹ viết trên tờ The New York Times.

Các cô dắt tôi đi chợ Bến Thành. Tôi… choáng váng vì lần đầu tiên được ăn gói mì ăn liền. Trào nước mắt nghĩ đến Hà Nội đói khổ chưa từng được thưởng thức món ăn "thần thánh" ngon mà không cần nấu nướng. Đang ở Hà Nội đi lại bằng xe đạp và tàu điện, nay bỗng chóng mặt vì hệ thống xe bus Sài Gòn dày đặc, đi đâu cũng tiện và đường phố vang tiếng đập ầm ầm nơi thành xe khi có người lên xuống.

Chúng tôi hối hả và liên miên các cuộc làm việc với nhiều giới - công thương, học sinh, sinh viên, chiến sĩ hoạt động nội thành. Tôi cũng tranh thủ đi gặp bà con họ hàng bên mẹ (người bị ảnh hưởng lý lịch rất nhiều vì có bà con đi Nam). Mấy cậu tôi là sỹ quan Việt Nam cộng hòa phải đi cải tạo và trong các bữa cơm gia đình vẫn cãi nhau vì… quan điểm chính trị. Đúng hệt không khí mà Nguyễn Khải miêu tả trong "Cuộc gặp gỡ cuối năm".

Các ông bà cô bác gửi thuốc men, quần áo ra Bắc cho mẹ tôi. Ngày đó sau chiến tranh tàn phá, miền Bắc cái gì cũng không có. Các anh bộ đội trở về sau chiến thắng, lên xuống tàu xe chen chúc, lưng thường đeo balo có cái khung xe đạp và… con búp bê về làm quà quý cho người thân nơi quê nhà.

Sài Gòn lúc đó bắt đầu khôi phục sản xuất ở các nhà máy. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy nhà máy giết mổ hiện đại nhất Đông Nam Á, thấy ở Công ty Vissan đang khôi phục những khung di động treo mảng lớn thịt trâu bò. Rồi đi các chợ, vào thương xá, nghe bao nhiêu chuyện đời, chuyện người chiến đấu, bảo vệ giữ gìn một Sài Gòn còn nguyên vẹn không đổ nát. Còn nguyên những thương hiệu như, mì tôm Colusa sau này nhập với Miliket, xà bông Cô Ba, bột Bích Chi, bông Bạch Tuyết…

Chúng tôi còn được về Bến Tre, thăm quê hương cô Ba Định, nghe nhiều gương chiến đấu và phong trào Đồng Khởi.

Chuyến công tác xuyên Việt đầu tiên ấy để lại trong tôi ấn tượng không phai và niềm hạnh phúc vô bờ khi trong đời làm báo được chứng kiến những bước ngoặt lịch sử lớn của quê hương đất nước. Chứng kiến cuộc sống đói nghèo, xa cách, chạm mặt với cái chết, đầy khổ đau mà can đảm.

Nhiều năm đã qua, tôi không ngờ hôm nay qua facebook có người phụ nữ sống ở Mỹ xin kết bạn và cho biết mình chính là nhân vật trẻ tuổi - một sinh viên ở Huế - tên là Trần Kiêm Trinh Tiên, từng được tôi phỏng vấn trong chuyến xuyên Việt ấy. Chị cho biết bài báo của tôi giúp người thân thất lạc trong cuộc di tản - đã tìm lại được nhau do đọc bài của tôi được in lại trên tờ báo "Avant-Garde" của sinh viên Canada.

Chị sang Mỹ làm nghề Layout designer cho hãng điện tử và nay về hưu ở Chicago. Chị nhắn messenger "em vẫn đọc nhiều bài của chị trên mạng xã hội và vẫn theo dõi facebook xem hình chị thời trẻ đi thuyền độc mộc qua sông khi đi viết về chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979". Chị còn gửi về tặng tôi tập truyện chị viết - đầy dấu ấn người Việt xa xứ luôn thương nhớ quê nhà. Tôi thấy hạnh phúc vì có được một độc giả chân thành với chuyện đời cảm động như vậy.

Cũng chuyến đi ấy - lần đầu tiên ở Huế - nghe qua băng cassette, tôi ngạc nhiên đầy rung cảm lạ lẫm với giọng Khánh Ly đang ca một tình khúc của Trịnh Công Sơn "… Màu nắng hay là màu mắt em…" - lời ca đi vào tâm tưởng, như thêm một báo hiệu từ nay cuộc sống sẽ đầy tình yêu và thanh bình…

Ý kiến của bạn
(*) Nội dung bắt buộc cần có
0 bình luận
Xem thêm bình luận

Nhập thông tin của bạn

Đọc thêm