Dự thảo Luật Dân số: Đề xuất chế độ trợ cấp trực tiếp hàng tháng để nuôi con đến 3 tuổi
Chuyên gia cảnh báo nếu Dự thảo Luật Dân số quy định một số chính sách mới để duy trì mức sinh thay thế, chính sách khuyến khích sinh đủ 2 con, mà các luật liên quan không được sửa đổi đồng bộ hoặc không có cơ chế nguồn lực đi kèm, thì chính sách đó sẽ bị "treo".
Mức sinh của Việt Nam đã chạm đáy lịch sử, đe dọa nghiêm trọng đến "cơ cấu dân số vàng" và nguy cơ "già hóa trước khi giàu". Trước thách thức phát triển quốc gia, Dự thảo Luật Dân số được kỳ vọng sẽ tạo ra một cú hích đột phá.
Phóng viên Báo Phụ nữ Việt Nam đã trao đổi với bác sĩ Mai Xuân Phương - nguyên Vụ phó Vụ Truyền thông Tổng cục Dân số, Bộ Y tế, để làm rõ "sức nặng" của các chính sách mới, và kiến nghị các giải pháp đột phá nhằm giữ vững mức sinh thay thế.
PV: Việt Nam hiện nay đã có nhiều khu vực có mức sinh xuống thấp dưới mức thay thế. Theo ông, mức sinh thấp kéo dài sẽ gây ra những hệ lụy kinh tế - xã hội nghiêm trọng nào đối với Việt Nam trong dài hạn?
Bác sĩ Mai Xuân Phương: Mức sinh thấp kéo dài là một thách thức phát triển quốc gia, đẩy Việt Nam đối mặt với ba nhóm hệ lụy kinh tế - xã hội nghiêm trọng: Thiếu hụt lực lượng lao động trẻ, nguồn cung lao động mới giảm, dẫn đến "già hóa lực lượng lao động", khiến năng suất, sáng tạo suy giảm. Các ngành nghề cần sức trẻ sẽ bị thiếu hụt lao động trầm trọng.
Già hóa dân số nhanh và gánh nặng an sinh: Tốc độ già hóa tăng mạnh (Việt Nam dự kiến chỉ mất khoảng 17-20 năm để chuyển sang "dân số già"). Điều này tạo áp lực lớn lên hệ thống hưu trí, y tế, và làm mất cân đối tỷ lệ người đóng - người hưởng bảo hiểm, đe dọa tính bền vững của quỹ an sinh.
Tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế: Lợi thế "dân số vàng" sẽ sớm khép lại, ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng GDP, giảm tiêu dùng nội địa.
Có thể nói, mức sinh thấp kéo dài không chỉ là câu chuyện dân số, mà là một thách thức phát triển quốc gia toàn diện. Nếu không có chính sách khuyến sinh kịp thời và đủ mạnh, Việt Nam có nguy cơ "già hóa trước khi giàu".

Bác sĩ Mai Xuân Phương- nguyên Vụ phó Vụ Truyền thông Tổng cục Dân số, Bộ Y tế
PV: Dự thảo Luật Dân số đã quy định những chính sách cụ thể nào để khuyến khích sinh đủ hai con, ông đánh giá tính khả thi và tác động thực tế của các quy định này sẽ như thế nào?
Bác sĩ Mai Xuân Phương: Dự thảo đã đưa ra một số chính sách nổi bật như ưu tiên nhà ở xã hội cho gia đình sinh đủ 2 con, tăng quyền lợi nghỉ thai sản cho con thứ hai, và hỗ trợ tài chính/hiện vật cho các nhóm mục tiêu. Những quy định này có thể tạo động lực thực tế cho một bộ phận gia đình và gửi tín hiệu chính sách mạnh.
Tuy nhiên, hiệu quả lâu dài lại đối diện với các rủi ro và bất cập cụ thể:
Nguy cơ phân biệt đối xử: Tăng quyền lợi nghỉ thai sản có thể khiến doanh nghiệp e ngại tuyển dụng lao động nữ hoặc dẫn đến phân biệt đối xử ngầm trên thị trường. Cần biện pháp bù đắp cho người sử dụng lao động.
Hiệu quả hạn chế: Quyết định sinh con chịu tác động chủ yếu bởi chi phí nuôi dạy và nhà ở. Do đó, các ưu đãi nhỏ lẻ, thiếu tính tổng hợp sẽ không đủ sức nặng để phá vỡ rào cản kép.
Thiếu linh hoạt: Việc áp dụng ưu đãi cứng nhắc trên mọi vùng miền có thể dẫn đến lãng phí nguồn lực do không phân biệt mức sinh thấp cao.

Mức sinh thấp kéo dài không chỉ là câu chuyện dân số, mà là một thách thức phát triển quốc gia toàn diện. Hình ảnh minh họa
PV: Nhiều chuyên gia cảnh báo rằng nếu Dự thảo Luật Dân số quy định một chính sách mới mà các luật liên quan không được sửa đổi đồng bộ hoặc không có cơ chế nguồn lực đi kèm, thì chính sách đó sẽ bị "treo". Ông bình luận gì về nguy cơ này và đề xuất giải pháp đồng bộ hóa nào?
Bác sĩ Mai Xuân Phương: Nguy cơ "chính sách bị treo" là một lo ngại sâu sắc. Các quy định khuyến sinh liên quan trực tiếp đến Luật Nhà ở, Luật Bảo hiểm xã hội, và Luật Ngân sách Nhà nước. Nếu các luật này không được sửa đổi, bổ sung đồng bộ, chính sách sẽ tắc nghẽn vì thiếu căn cứ pháp lý và nguồn lực thực hiện, dẫn đến tình huống "chính sách được ghi trong luật nhưng không thể đi vào đời sống".
Để giải quyết, cần có giải pháp đồng bộ hóa quyết liệt:
Rà soát và điều chỉnh đồng thời: Quá trình xây dựng Luật Dân số cần kèm theo "báo cáo rà soát pháp luật liên quan" để xác định rõ điều khoản nào trong các luật khác cần sửa đổi.
Bố trí nguồn lực thực tế: Cần có chương trình mục tiêu quốc gia với kinh phí trung hạn rõ ràng và cơ chế giám sát.
Thí điểm phân hóa: Nên chọn một số tỉnh, thành có mức sinh thấp làm địa bàn thí điểm gói chính sách toàn diện trước khi nhân rộng, tránh lãng phí nguồn lực.
Tóm lại, Dự thảo Luật Dân số chỉ thật sự đi vào cuộc sống khi nó "nói cùng tiếng nói" với các luật khác và có nguồn lực bảo đảm.

Luật Dân số chỉ thật sự đi vào cuộc sống khi "nói cùng tiếng nói" với các luật khác và có nguồn lực bảo đảm. Ảnh: Minh họa
PV: Ngoài các quy định đã có trong Dự thảo, Chính phủ cần bổ sung những chính sách can thiệp nào mang tính đột phá và toàn diện để thực sự cải thiện mức sinh và đưa Việt Nam trở lại quỹ đạo mức sinh thay thế bền vững?
Bác sĩ Mai Xuân Phương: Tôi đề xuất một gói can thiệp đột phá và toàn diện, tập trung vào việc giảm gánh nặng chi phí và chia sẻ trách nhiệm, cụ thể:
Chế độ tài chính trực tiếp, áp dụng trợ cấp nuôi con hàng tháng (ít nhất đến 3 tuổi) và tín dụng thuế theo thu nhập cho cha/mẹ làm việc.
Mở rộng dịch vụ công, đầu tư công mạnh vào nhà trẻ/mẫu giáo công chất lượng ở khu đô thị và khu công nghiệp; trợ giá phí gửi trẻ.
Hỗ trợ lao động, thiết kế Quỹ bù lương cho doanh nghiệp khi nhân viên nghỉ thai sản/nuôi con, đồng thời bổ sung chính sách tăng thời gian nghỉ phép có lương cho người cha để thể chế hóa việc chia sẻ trách nhiệm.
Phúc lợi nhà ở, gói hỗ trợ vay ưu đãi hoặc ưu đãi thuê nhà xã hội chiến lược có điều kiện minh bạch cho gia đình trẻ.
Cơ chế quản lý và giám sát, thành lập Quỹ quốc gia cho chính sách dân số với nguồn trung hạn; đưa vào luật yêu cầu đánh giá tác động định kỳ dựa trên các bộ chỉ số (KPI) rõ ràng.
Theo tôi, chỉ khi giải quyết được thách thức về đồng bộ hóa lập pháp, đảm bảo nguồn lực thực thi và áp dụng gói chính sách toàn diện có trọng tâm vùng miền, Việt Nam mới có thể ổn định được mức sinh bền vững.
PV: Trân trọng cảm ơn bác sĩ!