Dự thảo văn kiện Đại hội Đảng thể hiện bước nhảy vọt về tư duy phát triển
Đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng Trịnh Thị Tú Anh phát biểu tại nghị trường
Các ý kiến đều nhất trí cho rằng chủ đề của Đại hội thể hiện tầm vóc chiến lược; quán triệt sâu sắc tinh thần tự chủ, tự cường dân tộc, gắn với ý chí và trí tuệ của hơn 106 triệu người Việt Nam.
Dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng đang nhận được nhiều ý kiến đóng góp từ các chuyên gia, học giả, nhà quản lý, đại biểu Quốc hội.
Các ý kiến đều nhất trí cho rằng chủ đề của Đại hội thể hiện tầm vóc chiến lược; đồng thời quán triệt sâu sắc tinh thần tự chủ, tự cường dân tộc, gắn với ý chí và trí tuệ của hơn 106 triệu người Việt Nam - nguồn tài nguyên quý giá nhất làm động lực căn cốt hiện thực hóa mục tiêu phát triển phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đổi mới căn bản về phương pháp tiếp cận và cấu trúc văn kiện
Đánh giá về dự thảo văn kiện lần này, đại biểu Quốc hội Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) cho rằng chủ đề “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030; tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc vì hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội” là tuyên ngôn có tầm vóc chiến lược, mang đậm hơi thở của thời đại mới và tinh thần tự lực, tự cường của dân tộc.
Tổng Bí thư Tô Lâm đã từng khẳng định: “Tài nguyên quý nhất của Việt Nam không phải là khoáng sản, không phải là vị trí địa-chiến lược, mà chính là 106 triệu người Việt Nam hiện nay, những người cần cù, sáng tạo, giàu lòng yêu nước, giàu ý thức cộng đồng, ham học hỏi và biết vươn lên trong hoàn cảnh khó khăn."
Đây là sự kết tinh của tư duy lãnh đạo, thể hiện ý chí và quyết tâm chính trị cao nhất của Đảng trong giai đoạn phát triển mới. Đây không chỉ là tuyên ngôn cho một nhiệm kỳ mà còn là định hướng chiến lược cho "Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc" hướng tới mục tiêu hùng cường và thịnh vượng.
Cũng theo đại biểu Trịnh Thị Tú Anh, dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội lần này đánh dấu một bước tiến mang tính lịch sử, một sự đổi mới căn bản về phương pháp tiếp cận và cấu trúc văn kiện. Lần đầu tiên, ý chí lãnh đạo kiên định của Đảng được thể hiện qua việc hợp nhất ba trụ cột quan trọng. Theo đó, Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế-xã hội, và Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng đã được hợp nhất thành một chỉnh thể thống nhất, súc tích. Sự tích hợp này không chỉ đảm bảo tính nhất quán cao nhất về tư tưởng và hành động, mà còn là minh chứng cho tinh thần "dễ hiểu, dễ làm" xuyên suốt.
Quan trọng hơn, dự thảo văn kiện đã thể hiện một bước nhảy vọt về tư duy phát triển khi kịp thời cập nhật hàng loạt quyết sách chiến lược đã được Bộ Chính trị ban hành gần đây. Điều này không chỉ tạo ra động lực tức thời và mạnh mẽ cho công cuộc phát triển nhanh, bền vững, mà còn là cơ sở chính trị vững chắc để toàn Đảng, toàn dân, và toàn quân hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường vào năm 2045 - một tầm nhìn vượt thời đại và đầy tính lịch sử.
Chỉnh lý nội dung phù hợp thực tiễn
Liên quan đến các nội dung góp ý cụ thể, theo đại biểu Trịnh Thị Tú Anh, phần đánh giá về hạn chế, yếu kém trong dự thảo (Khổ cuối, trang 11) đánh giá: “Thị trường văn hoá chậm phát triển. Môi trường văn hoá chưa thật sự lành mạnh; đạo đức xã hội còn biểu hiện xuống cấp."
Đại biểu chưa đồng tình với đánh giá này vì cho rằng thực tế xã hội cho thấy, những giá trị đạo đức cốt lõi của dân tộc như tinh thần yêu nước, tương thân tương ái, đoàn kết vẫn được duy trì và phát huy mạnh mẽ, đặc biệt trong các tình huống khó khăn (dịch bệnh, thiên tai). Sự xuống cấp đạo đức nghiêm trọng nhất hiện nay chỉ xảy ra ở một bộ phận nhỏ người dân, trên một số lĩnh vực nhất định chứ không phải tất cả các lĩnh vực.
Do vậy, đại biểu cho rằng cần điều chỉnh lại câu trên là: “Đạo đức xã hội ở một số khía cạnh có biểu hiện xuống cấp” nhằm đảm bảo tính khách quan khoa học trong đánh giá, đồng thời giúp củng cố niềm tin của nhân dân và tập trung nguồn lực để giải quyết các vấn đề trọng yếu, nâng cao đạo đức xã hội một cách hiệu quả.
Hội nghị lấy ý kiến góp ý vào dự thảo Văn kiện Đại hội lần thứ XVIII Đảng bộ thành phố Hà Nội, nhiệm kỳ 2025-2030. (Ảnh: Văn Điệp/TTXVN)
Về nội dung khoa học công nghệ tại Khổ 2, trang 12 dự thảo văn kiện viết: “Cơ chế, chính sách, nguồn lực đầu tư, quản lý tài chính trong khoa học, công nghệ và chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ trí thức chưa phù hợp."
Tuy nhiên, đại biểu cho rằng thực tế trong thời gian vừa qua, việc quản lý các đề tài còn nặng nề về hành chính, từ xét duyệt, tổ chức thực hiện, đánh giá, nghiệm thu đến phổ biến kết quả nghiên cứu. Vì vậy, câu trên nên viết lại là “Cơ chế, chính sách, nguồn lực đầu tư, quản lý hành chính, tài chính trong khoa học, công nghệ và chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ trí thức chưa phù hợp.''
Về nội dung liên quan đến Dịch vụ y tế, tại Khổ 3, trang 12 của dự thảo văn kiện viết: “Dịch vụ y tế còn nhiều hạn chế, nhất là y tế cơ sở, y tế dự phòng.'' Đại biểu đề nghị bổ sung thêm nội dung: “Việc quản lý an toàn thực phẩm còn lỗ hổng nghiêm trọng; sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng vẫn diễn biến phức tạp với quy mô lớn.''
Góp ý về nội dung Chương trình hành động, đại biểu Trịnh Thị Tú Anh cho rằng cần bổ sung nội dung “xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách về các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường, trên cơ sở áp dụng Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền bao gồm thuế, phí, ký quỹ, xây dựng và vận hành thị trường carbon, bồi thường thiệt hại môi trường và chi trả dịch vụ môi trường” vào nội dung “Thể chế quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu” tại Điểm đ, Phần II của dự thảo văn kiện vì Nguyên tắc này là nền tảng cốt lõi để sử dụng các công cụ kinh tế nhằm điều chỉnh hành vi của tổ chức, cá nhân theo hướng có lợi cho môi trường.
Cùng với đó, đại biểu cũng đề nghị cần xây dựng các cơ sở hạ tầng cần thiết của quốc gia cho phát triển điện hạt nhân vì dự án điện hạt nhân không chỉ đơn thuần là dự án năng lượng, mà còn là một cam kết quốc gia về bảo đảm an toàn, an ninh hạt nhân, xây dựng đầy đủ khuôn khổ luật pháp và pháp quy hạt nhân, được cấp phép và giám sát trong toàn bộ vòng đời của nhà máy, cũng như xây dựng năng lực ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân và tham gia cơ chế quốc tế về bồi thường thiệt hại hạt nhân. Đây là điều kiện cần, là yêu cầu bắt buộc theo hướng dẫn của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) để một quốc gia phát triển điện hạt nhân phải xây dựng đủ các cơ sở hạ tầng cần thiết này.