pnvnonline@phunuvietnam.vn
Hành trình gần 400 năm của nghề thêu ở Việt Nam
Kể từ đó đến nay đã qua gần 400 năm, trải qua biết bao nhiêu biến động, thăng trầm, nghề thêu hiện đang được chú trọng bảo tồn, trở thành nguồn lực quan trọng trong phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.

Tương truyền nghề thêu ở Việt Nam xuất hiện từ thời các vua Hùng. Thời điểm đó, người Việt đã biết dùng chỉ, tơ, sợi nhuộm màu để thêu tỉa, trang trí trên nền vải. Các họa tiết rất đơn điệu như hình cỏ cây, động vật, cảnh sinh hoạt. Đến thời nhà Trần, việc thêu đã phát triển thành nghệ thuật thêu trang phục cung đình nhưng chủ yếu phục vụ cho vua, quan.

Người góp công trong việc truyền dạy, phổ biến nghề thêu rộng rãi trên khắp cả nước, đưa nghề này trở thành ngành thủ công mỹ nghệ đặc sắc là Tiến sĩ Lê Công Hành (1606 - 1661, người làng Quất Động, huyện Thường Tín, Hà Nội ngày nay). Không chỉ tại nguyên quán, ông được người dân ở nhiều nơi trên cả nước tôn vinh là Thành hoàng làng, được xưng tôn là “ông tổ nghề thêu Việt Nam”.

Đình Tú Thị (số 2A phố Yên Thái, phường Hàng Gai, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) còn gọi là đình Chợ Thêu, được xây dựng năm 1891 bởi những người dân làng thêu Quất Động tới tụ cư tại Kinh thành Thăng Long là một trong những nơi thờ phụng ông. Đây còn là địa điểm hành hương bái tổ của nhiều thế hệ người làm nghề thêu khắp cả nước trong suốt hơn 130 năm qua.

Danh xưng “ông Tổ nghề thêu” của Tiến sĩ Lê Công Hành xuất phát từ câu chuyện đi sứ ở Trung Hoa (năm 1646). Triều đình nhà Minh vì thấy ông là người thông minh nên đã quyết định nhốt ông trên một lầu cao trong thành, không có thang xuống. Trong thời gian này, ông đã hạ hai bức nghi môn và hai cái lọng bên trong tháp này xuống, rồi quan sát tỉ mỉ từng sợi chỉ, các đường thêu, cách tháo lắp cán chân của chiếc lọng, nhờ vậy ông biết cách làm lọng và kỹ thuật thêu của Trung Quốc lúc bấy giờ. Khi đã biết cách làm lọng rồi, ông lại hạ bức trướng xuống, tháo các đường chỉ kim tuyến xem cách thêu, rồi lại dùng chỉ đó thêu vào.

Sau khi về nước, ông bắt đầu truyền nghề thêu ông đã học được cho con cháu và người dân ở làng mình. Từ đó nghề thêu ở Quất Động trở nên phổ biến và phát triển hơn, trở thành nghề truyền thống của cả vùng. Vào những năm nghề thêu phát triển cực thịnh, sản phẩm làng nghề vang danh khắp cả nước, thể hiện óc sáng tạo trình độ tay nghề đạt mức tinh xảo. Sau khi mất, ông Lê Công Hành đã được dân trong vùng lập đền thờ, tôn làm “ông Tổ nghề thêu”.

Nhưng để đạt đến mức tinh xảo thì phải nhắc đến xứ Huế, đây được xem là nơi đánh dấu bước phát triển mới, quan trọng của nghề thêu Việt Nam. Dưới triều Nguyễn, bà Hoàng Thị Cúc - mẹ vua Bảo Đại - cùng con dâu (Nam Phương hoàng hậu) đã kết hợp những tinh hoa của nghệ thuật thêu tay Việt Nam với kỹ thuật thêu của Châu Âu. Việc này đã khiến nghệ thuật thêu của cung đình được nâng tầm, vươn đến đỉnh cao của nghệ thuật thêu tay Việt Nam.
Các trang phục lúc này được hoàn thiện hơn, từ sự oai nghiêm, hùng mãnh của rồng, sự duyên dáng, e ấp của các loài hoa đều thể hiện sắc nét trên trang phục. Một học giả người Pháp đã viết: “Người thợ thêu An Nam khéo léo về đường kim mũi chỉ và cách pha màu sắc…”.

Trong thời kỳ đó, nghề thêu thường do phụ nữ đảm trách, theo quan niệm của Nho giáo, người con gái phải hoàn thiện được tứ đức: "Công, Dung, Ngôn, Hạnh" như người xưa từng nói: “Trai thì đọc sách ngâm thơ/Gái thì kim chỉ thêu thùa vá may”.

Ông Gabrielle, học giả người Pháp, chuyên nghiên cứu văn hóa Á Đông, viết: "...Nhiều nơi đã truyền lại cho con cháu những ngành nghề lạ lùng là vẽ hình bằng chỉ làm cho bông sen, bông tử nở trên lụa, làm cho bươm bướm lượn trên mặt nước trong xanh...".
Ông Hocquard, soạn giả sách nói về nghề thêu cuối thế kỷ XIX, nhận định: "Người thợ thêu Việt Nam tỏ ra rất khéo léo trong việc phân bổ màu sắc trên lụa, để có những bức tranh thêu hòa hợp không chát chúa". Trải qua hàng thế kỷ thăng trầm, nghề thêu có khi lên xuống nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hoá lâu đời của dân tộc.

Năm 1939, theo thống kê số thợ thủ công Việt Nam của Bulletin, cả Bắc Kỳ khi đó có 2.315 thợ thêu tập trung ở 4 vùng lớn ứng với tứ trấn quanh Hà Nội xưa. Trong đó có quá nửa là thợ Hà Đông tập trung ở vùng Quất Động. Có thể đây là thời cực thịnh của nghề thêu trong toàn xứ nói chung và vùng Quất Động nói riêng.

Thời nghề thêu phát triển rầm rộ nhất (1972 - 1986), từ huyện Thường Tín vốn là quê gốc, nghề thêu đã được nhân rộng ra hầu khắp các xã trong huyện: Lê Lợi, Dũng Tiến, Nguyễn Trãi, Chương Dương… Ảnh: Mai Lan

Tuy nhiên, sau này, trước cơ chế thị trường, các sản phẩm thêu truyền thống không còn được nhiều người ưa chuộng, thu nhập thấp khiến nhiều người bỏ nghề. Nghề thêu thuyền trống đứng trước nguy cơ thất truyền, các bài thêu cổ, đặc biệt kỹ thuật thêu họa tiết, hoa văn (rồng, phượng) trên trang phục cung đình ngày càng mai một, thậm chí một số bị thất truyền.

Trước nguy cơ đó, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách kịp thời trong việc bảo tồn, phục dựng nghề thêu truyền thống của dân tộc, coi đây là nguồn tài nguyên quan trọng trong phát triển các ngành công nghiệp văn hóa theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại. Năm 2016, Nghề thêu tay truyền thống làng Đông Cứu (xã Dũng Tiến, huyện Thường Tín, Hà Nội), một trong những địa phương từng được Tiến sĩ Lê Công Hành truyền dạy nghề thêu - đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.

Cùng chung tay, ngày càng có nhiều tổ chức, cá nhân, đặc biệt là những người trẻ quan tâm, nỗ lực bảo tồn, phát huy, sáng tạo dựa trên các giá trị di sản của nghề thêu. Trong đó có chị Phạm Ngọc Trâm (SN 1984, trú tại TP Hội An, tỉnh Quảng Nam)
Chị Trâm được biết đến là người đang góp phần đưa nghệ thuật thêu Việt Nam lên bản đồ nghệ thuật thêu thế giới thông qua nghiên cứu, giảng dạy và trao đổi văn hoá, triển lãm.

Trong hơn 20 năm gắn bó với nghề thêu, chị Trâm đã sưu tầm, gìn giữ các kỹ thuật thêu di sản và tri thức cổ xưa về các chất liệu truyền thống như lụa, chỉ tơ tằm và nhuộm tự nhiên. Chương trình lưu trú và không gian mở xưởng của chị Trâm trong thời gian 8 tuần (từ 19/12/2024 đến 12/2/2025) tại đình Tú Thị đã góp phần biến nơi đây trở thành điểm hội tụ của các biểu tượng nghệ thuật và văn hóa đương đại. Nơi đây, những người yêu thích nghệ thuật dệt may và thêu thùa trao đổi kỹ thuật, chia sẻ câu chuyện về nghề của họ.