pnvnonline@phunuvietnam.vn
Nhân rộng mô hình "thay đổi nếp nghĩ, cách làm", nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ

Ảnh minh họa

TS Trần Thị Lụa, Phân hiệu Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam tại TPHCM
- Bà từng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của mô hình thay đổi "nếp nghĩ, cách làm" trong việc nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ, bà có thể nói cụ thể hơn về nội dung này?
Quyền năng kinh tế của phụ nữ từ lâu đã được coi là nền tảng quan trọng trong tiến trình bình đẳng giới. Tuy nhiên, để phụ nữ thật sự được tham gia, quyết định và thụ hưởng các giá trị của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, thì ngoài các chính sách hỗ trợ, họ cần thay đổi "nếp nghĩ, cách làm".
Tại Kon Tum - nay là tỉnh Quảng Ngãi, mô hình này được triển khai trong khuôn khổ Dự án 8 thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Ý tưởng cốt lõi là xóa bỏ định kiến, thay đổi hành vi, phát huy vai trò chủ thể của phụ nữ trong gia đình và cộng đồng.
Ví dụ, từ chỗ phụ nữ chỉ quen làm nông nghiệp tự cung tự cấp, nay họ được tiếp cận kiến thức sản xuất theo chuỗi, biết ứng dụng khoa học công nghệ, xây dựng thương hiệu sản phẩm, kết nối thương mại điện tử. Hay từ chỗ e ngại lên tiếng, nay họ dám tham gia các câu lạc bộ, nhóm truyền thông, đảm nhận vai trò lãnh đạo cộng đồng.
Điều này không chỉ giúp phụ nữ thoát nghèo, tự chủ về kinh tế mà còn khẳng định tiếng nói của họ trong đời sống xã hội. Đây cũng chính là cơ sở để mô hình có thể nhân rộng ra các tỉnh phía Nam - nơi có nhiều điểm tương đồng về đặc điểm kinh tế - xã hội.

Vai trò của phụ nữ vùng cao đang ngày càng được khẳng định trong gia đình và ngoài xã hội
- Bà có thể cho biết những kết quả cụ thể sau khi triển khai không, thưa bà?
Kết quả rất đáng khích lệ. Tính riêng ở Kon Tum (cũ), cụ thể:
- 281 tổ truyền thông cộng đồng được thành lập, với hơn 2.000 thành viên tham gia, tổ chức 622 đợt truyền thông, thu hút gần 25.000 lượt phụ nữ và người dân. Nội dung tập trung vào bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình, chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em, xóa bỏ hủ tục lạc hậu.
- Hội LHPN tỉnh đã biên soạn và phát hành 26.000 tờ rơi tuyên truyền, giúp chị em tiếp cận thông tin chính sách hỗ trợ sinh đẻ an toàn, chăm sóc trẻ em.
- Về kinh tế, có 20 lớp tập huấn về mô hình kinh tế tập thể, với 800 thành viên tham gia. Phụ nữ được hướng dẫn về OCOP, thương hiệu, thương mại điện tử, truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
- Về an sinh xã hội, đã thành lập mới 30 "địa chỉ tin cậy" cho phụ nữ bị bạo lực, nâng tổng số lên 93 điểm, đồng thời thành lập 46 câu lạc bộ "Thủ lĩnh của sự thay đổi" với hơn 1.100 trẻ em tham gia, trong đó gần 700 là trẻ em gái.
Những con số này cho thấy mô hình không chỉ dừng ở truyền thông nhận thức mà còn tạo ra sự thay đổi trong hành động, giúp phụ nữ và trẻ em có môi trường an toàn, cơ hội phát triển bền vững. Đây là tiền đề rất tốt để nhân rộng sang các tỉnh phía Nam.

Việt Nam đã xây dựng và triển khai các chính sách bảo vệ và thúc đẩy quyền của người dân tộc thiểu số (Ảnh: Nguyễn Hồng)
- Vậy trong quá trình triển khai, đâu là những khó khăn, hạn chế lớn nhất mà mô hình gặp phải?
Có thể tóm lược thành ba nhóm khó khăn chính:
Thứ nhất, về nhân sự: Ở cấp xã, cán bộ Hội LHPN thường chỉ có 1–2 người, trong đó có người bán chuyên trách. Họ vừa phải nghiên cứu, vừa triển khai, vừa thanh quyết toán, nên quá tải. Việc thiếu nhân lực khiến tiến độ nhiều khi chậm.
Thứ hai, về kinh phí và cơ sở vật chất: Kinh phí hỗ trợ cho một tổ truyền thông chỉ khoảng 3 triệu đồng - thấp hơn nhiều so với nhu cầu. Điều này khiến nhiều hoạt động như biên soạn cẩm nang truyền thông không thể thực hiện, mà chỉ dừng ở nhân bản tài liệu.
Thứ ba, về đặc thù vùng miền: Kon Tum (cũ) có nhiều dân tộc thiểu số, trong đó không ít người dân chưa thạo tiếng Việt. Thêm vào đó, một số hủ tục, tập quán lạc hậu vẫn còn tồn tại, gây trở ngại cho việc thay đổi nếp nghĩ.
Chính những rào cản này cho thấy, khi nhân rộng mô hình sang các tỉnh phía Nam - vốn cũng có sự đa dạng dân tộc, văn hóa - chúng ta cần có giải pháp phù hợp về ngôn ngữ, tập quán và nguồn lực.

Tuyên truyền công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình vùng dân tộc thiểu số
- Với những kinh nghiệm đã có, theo bà, cần làm gì để nhân rộng mô hình này hiệu quả tại các tỉnh phía Nam?
Để mô hình thật sự lan tỏa, tôi đề xuất một số giải pháp:
1. Tiếp tục củng cố các tổ truyền thông cộng đồng: Đây là lực lượng nòng cốt để thay đổi nhận thức và hành vi. Cần tổ chức tuyên truyền đa dạng hơn, như hội thi, diễn đàn, chiến dịch truyền thông sáng tạo, đặc biệt chú trọng hình thức trực tiếp với đồng bào dân tộc thiểu số có tỷ lệ mù chữ cao.
2. Nâng cao năng lực cho cán bộ nữ người dân tộc thiểu số: Họ chính là những người truyền cảm hứng mạnh mẽ nhất. Đồng thời, cần tập huấn cho già làng, người uy tín, chức sắc tôn giáo để cùng xóa bỏ hủ tục, định kiến giới.
3. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể: Đặc biệt là tổ chức Đoàn Thanh niên- vốn có nhiều hoạt động sáng tạo, có thể kết nối, hỗ trợ cho phụ nữ và trẻ em.
4. Đảm bảo nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất: Nếu thiếu kinh phí, mô hình chỉ dừng ở tuyên truyền mà không đi vào chiều sâu. Cần có cơ chế huy động xã hội hóa, đồng thời Nhà nước cần ưu tiên thêm ngân sách.
Nếu làm tốt những điều này, tôi tin rằng các tỉnh phía Nam hoàn toàn có thể triển khai thành công, tạo chuyển biến rõ rệt trong đời sống phụ nữ và trẻ em.
- Trân trọng cảm ơn bà!