Truyện ngắn: Gieo chữ trên mây
Ảnh minh họa
Trời chưa sáng hẳn, sương mù giăng đặc quánh. Sương và mây quyện vào nhau khiến hai người đối diện nói chuyện chỉ nghe "âm thanh" chứ không thấy "hình ảnh", đúng kiểu nghe đài chứ không phải xem ti vi.
Nghĩ đến đó, Hải bật cười khe khẽ. Anh chui khỏi chăn ấm, vươn vai cho giãn gân cốt rồi xuống bếp đun nước.
Chiếc ấm cũ có nắp méo do bị rơi nhiều lần đặt cạnh nồi nước to đang sôi lăn tăn trên bếp củi. Hơi lửa ấm áp cùng mùi khói bay lên gợi cho Hải nhớ bao ký ức tuổi thơ nơi quê nhà. Ấm nước ấy dùng để pha lá an xoa, thứ trà mà thầy trò cùng uống suốt buổi học. Lá do các anh bộ đội biên phòng hái trong rừng, phơi khô, sao vàng hạ thổ, thỉnh thoảng lại gửi tặng cho Hải một túi to. Trà thơm dịu, lại ngăn bệnh. Mỗi sáng, anh phải đun 3 ấm, chắt vào phích giữ nhiệt cho cả ngày.
Ngoài pha trà, nước sôi còn để chan cơm cho học trò. Nhiều đứa nhà xa, phải dậy từ tờ mờ sáng dắt nhau đi học cả chục cây số. Khi đến nơi, phần cơm mang theo đã nguội ngắt, khô cứng. Chúng chan nước nóng, rắc vài hạt muối mà ăn ngon lành. Hôm nào nhận lương, Hải mua thêm ít mì tôm, nấu canh chia nhau, lũ nhỏ vui sướng như được dự tiệc.
Còn nồi nước to dùng để rửa mặt, rửa tay chân trước khi vào lớp. Đường xa, đến nơi thì mặt mũi đứa nào cũng đỏ au vì lạnh, tay chân cóng cứng, lấm lem đất cát. Hải thương lắm, nhưng biết làm sao, vùng sâu vùng xa, thứ gì cũng thiếu. Căn phòng anh ở chỉ là mấy tấm tre nứa dựng tạm, che bằng vài tấm tôn cũ, đủ tránh gió mưa.
Ngày trước, có em học sinh đi bộ đến 15 cây số để tới lớp. Mùa khô còn đỡ, mùa mưa thì đến nơi lấm từ đầu đến chân. Sau mấy năm rèn luyện bằng cách… đi học, em giành giải Nhất môn điền kinh tại Hội khỏe Phù Đổng tỉnh. Khi nghe em chia sẻ "bí quyết luyện tập", các thầy cô vừa cười vừa rưng rưng.
Giờ có thêm điểm trường, việc đi học đỡ hơn, nhưng nhiều em ở thôn xa vẫn phải đi bộ 6, 7 cây số đường đất. Nhà khá giả mới thuê được chỗ trọ gần trường, còn phần lớn các em vẫn đi về trong ngày, sáng dậy từ 4 giờ, tối 7 rưỡi mới về tới nhà.
***
Ánh lửa bập bùng trong bếp như làm tan bớt lớp sương mù dày đặc. Mấy đứa học trò bảo với Hải: "Đi gần đến lớp là hai chân muốn rã ra, nhưng nhìn thấy ánh lửa trong bếp thầy nấu nước là biết sắp đến nơi rồi, em chỉ cần cố thêm chút nữa thôi". Vậy nên, dù có mệt đến đâu, sáng nào Hải cũng dậy sớm nhóm bếp. Anh tự nhủ, ánh lửa này đâu chỉ để soi cho lũ nhỏ đến trường mà còn là ngọn lửa sưởi ấm chính mình…
Hải vừa đun gần xong nồi nước thì Long thức dậy. Chẳng biết ai gọi sớm, cậu vừa nghe điện thoại vừa dạ rối rít. Long mới ra trường, xung phong lên đây dạy học. Điểm trường mở thêm lớp, một mình Hải không xuể, có thêm đồng nghiệp khiến anh thấy đỡ quạnh hiu.
Ngày đầu gặp Long, Hải thầm nghĩ: Cậu chàng này trắng trẻo, thư sinh, mặt còn búng ra sữa, cười lỏn lẻn thế kia, chắc chẳng trụ nổi vài ngày. Nhưng anh đã nhầm. Ở nơi heo hút này, Long như cá gặp nước.
Ngoài tật ham ngủ mà Long tự nhận là "đang tuổi ăn tuổi lớn", việc gì cậu cũng làm đâu ra đấy. Cậu chăm luống rau cải xanh mỡ màng, rồi trồng thêm hai hàng hoa sao nhái dọc lối vào trường. Đám trò nhỏ ngày nào cũng chạy ra xem, đếm từng bông nở. Hôm lứa hoa đầu tiên khoe sắc dưới nắng, Long lôi cả lớp ra chụp ảnh, tiếng cười trong veo vang cả triền đồi.
Long còn dạy thêm tiếng Anh, môn học mà học trò ở đây gần như xa lạ. Giờ học, cậu dẫn các em ra ngoài, chỉ từng ngọn đồi, loài hoa, viên sỏi rồi dạy cách gọi tên bằng tiếng Anh. Chỉ ít lâu, lũ nhỏ đã thuộc vài từ và hát được những câu đơn giản. Tiếng hát líu lo vang trên đường đến trường, khiến lớp học bừng sức sống.
Long còn giỏi võ. Giờ ra chơi, cậu dạy học trò mấy thế phòng thân. Khi Hải hỏi, Long cười:
- Cháu là con nhà lính. Bố cháu là bộ đội biên phòng, quanh năm xa nhà, nhưng luôn dặn mẹ phải cho cháu tập võ, rèn sức khỏe. Chỉ tiếc là bố cháu không còn nữa. Mùa mưa năm ấy, ông bị lũ cuốn khi cứu dân. Mẹ cháu đau buồn, cũng đổ bệnh rồi đi sau bố vài năm. Cháu về sống với cậu mợ. Họ thương cháu lắm, tìm cho việc ở gần nhà, nhưng cháu vẫn muốn quay lại mảnh đất nơi bố mẹ từng sống, nơi cháu cất tiếng khóc đầu đời.
Người già quanh bản vẫn nhớ Long. Thấy cậu, họ xúc động nắm tay: "Ngày trước nó nhỏ xíu, nghịch như khỉ mà ngoan lắm. Bố nó là người con của bản, lúc nào dân cần cũng có mặt, nào dạy trồng lúa nước, dạy nuôi lợn, dạy chữ cho người mù. Mẹ nó là cô giáo cắm bản, mười lăm năm sau mới gặp bố nó rồi nên duyên. Cả hai đều ở lại mảnh đất này mãi mãi… Thằng Long đúng là đứa con của đất này".
***
Một tối, hai chú cháu ngồi uống trà ngắm trăng, giữa mênh mông núi đồi, Long bất chợt thủ thỉ:
- Dù cháu không sinh ra và lớn lên ở đây, dù bố mẹ cháu không còn nằm lại nơi này, nhất định cháu vẫn sẽ đến. Chú biết vì sao không?
Hải lặng im. Long nói tiếp, giọng xúc động như đứa con nũng nịu với cha:
- Cháu đọc bài báo về cô giáo mất trên đường trở lại trường sau kỳ nghỉ hè. Mùa mưa, đường trơn, xe lao xuống vực. Những trang sách, đôi dép, tấm áo cô xin được mang cho học trò vướng đầy trên cành cây… Cháu không cầm nổi nước mắt. Đừng bảo con trai mà yếu đuối, chú ạ. Con trai hay con gái đều có trái tim. Cháu nhớ bố mẹ, nhớ bạn bè thuở nhỏ. Cháu muốn tiếp bước bố mẹ, muốn góp phần thực hiện ước mơ còn dang dở của cô giáo đã ngã xuống vì sự nghiệp gieo chữ nơi biên cương.
Hải lặng đi. Lâu lắm rồi mới có người nhắc đến Lan, cô giáo trong câu chuyện của Long. Lan mất khi chỉ còn vài tháng nữa hai người làm đám cưới.
Ngày đó, Lan háo hức dự định đám cưới sẽ tổ chức ngay tại điểm trường, dùng hoa dại hái ven suối tết cổng hoa, mời học trò ăn bánh kẹo. Ước mơ giản dị khiến cô vui suốt bao ngày. Nhưng Lan mãi mãi mang theo niềm vui ấy lên mây trắng…
Tốt nghiệp Đại học Sư phạm loại giỏi, được quyền chọn trường tốt, nhưng Lan vẫn về lại quê mình, tình nguyện dạy ở điểm trường xa nhất. Thân gái một mình, cô xin ở nhờ phòng công vụ cùng người bạn Bí thư Đoàn xã. Mùa mưa, để đến lớp, Lan phải gói bộ quần áo trong túi nylon, đến nơi mới thay ra vì đường lầy ngập bùn. Vất vả là vậy, nhưng chưa bao giờ thấy Lan than vãn. Ở cô lúc nào cũng có "một mặt trời nhỏ" rạng rỡ, đầy năng lượng.
Lan thường nói: "Mình là người địa phương mà ngại khổ, thì sao mong người khác tình nguyện đến đây dạy được". Ước mơ lớn nhất của cô là kêu gọi được kinh phí xây nhà bán trú dân nuôi để học sinh khỏi lặn lội đường xa.
Sau khi Lan mất, Hải xin chuyển về chính điểm trường cô từng dạy. Anh dựng căn phòng nhỏ cạnh lớp học, sống một mình nơi sương mù vây quanh. Bố mẹ mất, anh em đều thành đạt, Hải định dành tiền lương để xây căn phòng bán trú thay cô hoàn thành tâm nguyện. Nhưng tháng này có trò ốm phải đi viện, tháng khác thấy học sinh mặc áo mỏng giữa mùa lạnh, anh lại không nỡ. Cứ thế, việc xây phòng học mãi chưa thành...
***
Sáng ấy, Long ùa vào bếp, đôi bàn tay lạnh cóng đưa ra hơ lửa, khuôn mặt rạng rỡ không giấu nổi niềm vui:
- Chú Hải ơi, các bạn của cháu thấy ảnh điểm trường với hàng hoa sao nhái cháu đăng, rồi đọc câu chuyện về cô giáo hóa thân thành mây trắng, họ đã kêu gọi được tiền để xây lại phòng học, nhà bán trú và sân chơi cho học sinh mình rồi! Cuối tuần sau, nhóm sẽ lên khảo sát. Nếu thuận lợi, tất cả sẽ hoàn thành trước năm học mới!
Hải lặng người. Anh đặt bàn tay lên vai Long trìu mến. Anh thấy mắt mình nhòe đi khi hình ảnh lớp học khang trang, phòng ở cho các em hiện lên lung linh, tươi sáng giữa mây trắng, sương tan và những ánh nắng bắt đầu ngày mới. Trong những tia nắng ấm áp ấy, như có cả ánh mắt Lan dõi theo.
Anh đứng dậy, bước ra sân. Tiếng hát của học trò đã ngân vang chỗ hàng hoa sao nhái rực rỡ.