Tuyên truyền bình đẳng giới cần gắn với đặc điểm văn hóa, dân tộc và ngôn ngữ địa phương

Trường Lê (thực hiện)
28/05/2025 - 17:00
Tuyên truyền bình đẳng giới cần gắn với đặc điểm văn hóa, dân tộc và ngôn ngữ địa phương

Thạc sĩ Lê Trọng Hưng

Trong những năm qua, công tác tuyên truyền vận động về bình đẳng giới ở tỉnh Trà Vinh - một địa phương có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống - đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần làm thay đổi nhận thức cộng đồng và nâng cao vai trò phụ nữ trong gia đình, xã hội.

Tuy nhiên, thực tiễn vẫn đặt ra không ít thách thức. Phóng viên Báo Phụ nữ Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Thạc sĩ Lê Trọng Hưng, giảng viên Phân hiệu Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh tại Vĩnh Long, tác giả nghiên cứu “Tuyên truyền vận động về bình đẳng giới - trường hợp tỉnh Trà Vinh”, để hiểu rõ hơn về thực trạng và giải pháp thúc đẩy công tác bình đẳng giới tại địa phương.

PV: Từ nghiên cứu thực tiễn ở Trà Vinh, ông đánh giá thế nào về thực trạng tuyên truyền và vận động bình đẳng giới hiện nay tại tỉnh, đặc biệt ở khu vực nông thôn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số?

Thạc sĩ Lê Trọng Hưng: Từ nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Trà Vinh, có thể nhận định rằng công tác tuyên truyền và vận động bình đẳng giới ở đây đã đạt được một số kết quả tích cực, song vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt ở khu vực nông thôn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 

Các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ đã triển khai đa dạng các hình thức tuyên truyền, từ hội thảo, truyền thông đại chúng đến mạng xã hội, góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng về bình đẳng giới. 

Tuy nhiên, hiệu quả tuyên truyền chưa đồng đều giữa các huyện do những rào cản về ngôn ngữ, phong tục tập quán và trình độ dân trí còn thấp. Phụ nữ vùng nông thôn và đồng bào Khmer vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thông tin và thụ hưởng các chính sách bình đẳng giới. 

Bên cạnh đó, đội ngũ tuyên truyền viên cơ sở còn thiếu và chưa được đào tạo bài bản, dẫn đến khó khăn trong việc truyền tải thông điệp phù hợp với đặc thù văn hóa địa phương. 

Do đó, để nâng cao hiệu quả công tác này, cần tăng cường đào tạo nhân lực tại chỗ, mở rộng hợp tác liên ngành và ứng dụng công nghệ truyền thông hiện đại phù hợp với từng nhóm đối tượng. Việc tiếp tục đầu tư vào công tác tuyên truyền ở khu vực nông thôn và dân tộc thiểu số sẽ góp phần thúc đẩy sự thay đổi nhận thức và hành vi bền vững về bình đẳng giới trong cộng đồng.

Tuyên truyền bình đẳng giới cần gắn với đặc điểm văn hóa, dân tộc và ngôn ngữ địa phương- Ảnh 1.

Du khách tham gia các hoạt động trải nghiệm tại Làng Văn hóa du lịch Khmer Trà Vinh

PV: Theo ông, yếu tố nào đang cản trở hiệu quả của các hoạt động tuyên truyền về bình đẳng giới tại địa phương? Và đâu là nguyên nhân sâu xa của tình trạng này?

Thạc sĩ Lê Trọng Hưng: Một trong những yếu tố cản trở hiệu quả của các hoạt động tuyên truyền về bình đẳng giới tại tỉnh Trà Vinh hiện nay chính là rào cản văn hóa – xã hội, đặc biệt là tư tưởng trọng nam khinh nữ còn tồn tại phổ biến trong cộng đồng dân cư, nhất là ở khu vực nông thôn và các nhóm dân tộc thiểu số như người Khmer. 

Những định kiến xã hội này khiến cho việc tiếp nhận thông tin và thay đổi hành vi của người dân trở nên chậm chạp, từ đó làm giảm hiệu quả của các chiến dịch truyền thông, dù đã được đầu tư đa dạng về hình thức như truyền hình, phát thanh, mạng xã hội và sinh hoạt cộng đồng.

Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này bắt nguồn từ sự bất bình đẳng giới kéo dài trong lịch sử, được củng cố qua hệ thống gia đình phụ hệ, phong tục tập quán lạc hậu, và mức độ dân trí còn thấp ở nhiều vùng sâu, vùng nông thôn. 

Bên cạnh đó, năng lực tiếp cận và triển khai hoạt động tuyên truyền của cán bộ địa phương còn hạn chế, chưa được đào tạo bài bản về giới và kỹ năng truyền thông tương tác phù hợp với đặc điểm văn hóa địa phương. 

Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả tuyên truyền, cần có chiến lược giáo dục và truyền thông phù hợp với đặc điểm nhân khẩu học và văn hóa bản địa, đồng thời tăng cường năng lực cho đội ngũ tuyên truyền viên và sự tham gia tích cực của nam giới trong các hoạt động bình đẳng giới.

PV: Ông có thể chia sẻ những mô hình hay, cách làm hiệu quả mà Trà Vinh đã thực hiện để thúc đẩy bình đẳng giới mà các địa phương khác có thể tham khảo?

Thạc sĩ Lê Trọng Hưng: Tỉnh Trà Vinh đã triển khai nhiều mô hình và cách làm hiệu quả trong công tác thúc đẩy bình đẳng giới, trong đó có những điểm sáng có thể trở thành kinh nghiệm tham khảo cho các địa phương khác.

Một là, việc đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật và chính sách về bình đẳng giới thông qua các hình thức đa dạng như truyền hình, phát thanh, mạng xã hội, tờ rơi và các buổi họp cộng đồng đã giúp nâng cao nhận thức rộng rãi trong nhân dân, đặc biệt là phụ nữ nông thôn và đồng bào dân tộc Khmer. 

Một mô hình nổi bật là chương trình "Người có giúp người khó", trong đó các hội viên khá giả hỗ trợ phụ nữ nghèo về vốn, kỹ thuật, khởi nghiệp – góp phần tạo sinh kế và giúp hàng trăm phụ nữ thoát nghèo bền vững.

Hai là, Trà Vinh cũng xây dựng mạng lưới "địa chỉ tin cậy tại cộng đồng" và các câu lạc bộ phòng, chống bạo lực gia đình, giúp hỗ trợ kịp thời các trường hợp bị xâm hại hoặc bạo lực giới. 

Đồng thời, mô hình hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua các lớp tập huấn, kết nối nguồn lực từ các tổ chức, doanh nghiệp, dự án phát triển… đã góp phần nâng cao vị thế kinh tế cho phụ nữ.

Ba là, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ được triển khai bài bản từ cơ sở đến cấp tỉnh, giúp xây dựng đội ngũ nữ lãnh đạo vững vàng về chuyên môn và lý luận chính trị. Những cách làm này cho thấy Trà Vinh đã kết hợp hài hòa giữa tuyên truyền, hỗ trợ thực tế và nâng cao năng lực, từ đó thúc đẩy bình đẳng giới một cách bền vững và toàn diện.

PV: Từ thực tế nghiên cứu, ông có kiến nghị gì để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động bình đẳng giới tại Trà Vinh cũng như các tỉnh khu vực Nam Bộ trong thời gian tới?

Thạc sĩ Lê Trọng Hưng: Từ thực tiễn nghiên cứu tại tỉnh Trà Vinh, có thể rút ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động bình đẳng giới không chỉ tại Trà Vinh mà còn phù hợp với bối cảnh chung của các tỉnh Nam Bộ trong thời gian tới.

Thứ nhất, cần tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ Hội Phụ nữ các cấp, đặc biệt là kỹ năng truyền thông, lãnh đạo cộng đồng và tiếp cận nhóm yếu thế, giúp họ trở thành cầu nối hiệu quả giữa chính sách và người dân.

Thứ hai, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông đa phương tiện như mạng xã hội, video ngắn, tạo kênh Youtube, Zalo, Facebook, Tiktok để đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, tiếp cận các nhóm tuổi khác nhau, nhất là giới trẻ.

Thứ ba, công tác tuyên truyền cần gắn liền với đặc điểm văn hóa, dân tộc và ngôn ngữ địa phương; đặc biệt tại các tỉnh có đông đồng bào Khmer như Trà Vinh, việc truyền tải thông tin cần sử dụng song ngữ để đảm bảo tính toàn diện và hiệu quả.

Thứ tư, cần tăng cường sự phối hợp liên ngành giữa Hội Phụ nữ với các tổ chức chính trị – xã hội, doanh nghiệp và tổ chức phi chính phủ để mở rộng nguồn lực, thiết kế các chương trình tuyên truyền đồng bộ, có chiều sâu.

Thứ năm, việc giám sát, đánh giá hiệu quả tuyên truyền cũng cần được chú trọng nhằm điều chỉnh kịp thời phương pháp và nội dung, đồng thời tạo các kênh phản hồi từ cộng đồng.

Thứ sáu, cần thúc đẩy sự tham gia tích cực của nam giới trong các hoạt động bình đẳng giới, nhằm xóa bỏ định kiến và xây dựng mô hình gia đình, xã hội tiến bộ, công bằng và phát triển bền vững.

PV: Xin trân trọng cảm ơn Thạc sĩ Lê Trọng Hưng về những chia sẻ tâm huyết!

Ý kiến của bạn
(*) Nội dung bắt buộc cần có
0 bình luận
Xem thêm bình luận

Nhập thông tin của bạn

Đọc thêm