pnvnonline@phunuvietnam.vn
Bản tuyên ngôn của khát vọng, niềm tin và ý nghĩa thời đại

Bản Tuyên ngôn Độc lập bằng 3 thứ tiếng Việt - Anh - Pháp do Việt Nam Thông tấn xã phát đi ngày 15/9/1945, thông báo với toàn thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ảnh tư liệu: TTXVN
NHỮNG GIÁ TRỊ NHÂN VĂN, NHÂN NGHĨA, NHÂN ĐẠO, CAO ĐẸP
Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945 kế thừa và phát triển những truyền thống nhân văn tốt đẹp của dân tộc. Từ giữa thế kỷ XIX, trước ách xâm lược của ngoại bang, những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam một lần nữa bị/được thử thách và có cơ hội tiếp tục tỏ rõ “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, đem chí nhân thay cường bạo”. Nhân dân ta vùng lên chống ách xâm lược của thực dân Pháp không chỉ bằng lòng “nhân ái”, “trắc ẩn”, mà còn bằng “vì nghĩa, đại nghĩa” tức là theo cái lý vì điều phải, chống điều trái; vì điều thiện, chống điều ác.
Trong gần 1 thế kỷ chống thực dân Pháp, phát xít Nhật, nhân dân ta đã đổ biết bao máu xương vì nền độc lập của dân tộc, tự do của nhân dân, giành quyền sống, quyền làm người. Bản Tuyên ngôn Độc lập là hoa, là quả của bao nhiêu máu, nước mắt của những nhà yêu nước, của biết bao đồng bào, đồng chí, bao nhiêu tính mạng đã hy sinh. Hơn hai mươi triệu đồng bào ta gắng sức, tin tưởng, quyết tâm, đồng tâm, hy vọng trong cuộc chiến đấu một mất một còn với kẻ thù để rũ bùn đứng dậy, thoát đời nô lệ, làm người tự do. Giá trị cách mạng được kết và nâng cao từ những giá trị truyền thống. Mạch nguồn khát vọng tự do, độc lập chảy mãi đến vô cùng.
Bản Tuyên ngôn Độc lập khẳng định các quyền cơ bản của con người. Không phải ngẫu nhiên mà mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ; Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Hai bản tuyên ngôn này đã viết những lời bất hủ, những lẽ phải không ai chối cãi được về các quyền cơ bản tạo hóa cho con người như quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền bình đẳng về quyền lợi.
Nhưng từ khi xâm lược nước ta, bọn thực dân Pháp bắn giết, khủng bố, áp bức, nô dịch, đè nén, bắt dân ta làm nô lệ. Trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc lại những tội ác tày trời, lên án bọn thực dân Pháp đã lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái để áp bức đồng bào ta trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Hơn 20 triệu con Lạc cháu Hồng không chịu nổi nữa, tỉnh ngộ, đoàn kết, biết rằng “thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ”, đồng tâm hiệp lực đứng lên đánh đuổi quân áp bức mình. Khi Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị, dân ta vùng lên đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm để gây nên nước Việt Nam độc lập và đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc. Ảnh tư liệu
Bản Tuyên ngôn Độc lập gắn quyền của con người với quyền của các dân tộc, gắn nhân văn với nhân đạo, nhân nghĩa, chính nghĩa. Ý nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ dừng lại ở chỗ chấm dứt chính thể quân chủ chuyên chế và chế độ thực dân áp bức, mở ra kỷ nguyên mới Dân chủ Cộng hòa, độc lập tự do, mà một điểm nhấn rất quan trọng là khẳng định quyền của tất cả các dân tộc trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng lên, suy rộng ra quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả mọi người thành quyền của tất cả các dân tộc trên thế giới. Với Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói trước được điều mà 15 năm sau, vào năm 1960, Liên hợp quốc đã đưa vào trong tuyên bố trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa. Ở góc nhìn vì nghĩa, đại nghĩa, đó chính là sự gắn quyện giữa nhân văn với nhân nghĩa, nhân đạo và chính nghĩa. Tuyên ngôn Độc lập khẳng định quyền sống, quyền làm người của con người Việt Nam, cũng là khát vọng của lòng người nhân loại.
Chữ “nghĩa” thấm đẫm trong Tuyên ngôn Độc lập, cho thấy dân tộc Việt Nam đã làm điều phải, điều phải làm. Mạnh Tử, một học trò của Khổng Tử, nói một ý rất hay, đại khái: “sống” là điều ta ưa thích, “nghĩa” cũng là điều ta ưa thích, nhưng nếu trong hai điều ấy phải bỏ một lấy một, thì ta bỏ cái sống để ta lấy cái nghĩa. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thực hiện tốt, làm tròn sứ mệnh cả hai cái và Tuyên ngôn Độc lập toát lên cả hai cái đó. Nếu chữ “nhân” nặng về lòng thương người, yêu người, thì nhân đạo, nhân nghĩa, chính nghĩa thêm cả lẽ phải, điều phải. Nó không chỉ dừng lại ở “cái riêng” mà là “cái chung” - cái chung dân tộc trên cái riêng cá nhân - và cao hơn nữa là cái chung nhân loại. Đó không chỉ làm việc nghĩa trong phạm vi dân tộc mà là đại nghĩa với tất cả các dân tộc trên thế giới.
“Vì nghĩa” và nhân đạo trong Tuyên ngôn Độc lập là một giá trị nhân văn lớn ở tầm nhân loại. Để có được độc lập tự do, 15 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta kết hợp sức ta với phe Đồng minh để chống phát xít. Bởi thế cho nên - như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định - chúng ta có khát vọng, có niềm tin, có quyền hưởng và phải được tự do, phải được độc lập.
Bản Tuyên ngôn Độc lập gửi tới thế giới một thông điệp hết sức quan trọng, sáng rõ, có ý nghĩa thời đại là quá trình cách mạng của nhân dân Việt Nam không chỉ vì dân tộc mình mà còn vì tự do độc lập của các dân tộc khác. Chúng ta đứng về phe thiện để chống phe ác, làm điều phải để chống điều trái, làm điều chính nghĩa chống phi nghĩa. Chúng ta hy sinh bao xương máu vì việc nghĩa, vì nhân nghĩa, vì đạo nghĩa, vì đại nghĩa. Ngọn cờ độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã thức tỉnh các dân tộc bị áp bức vùng lên giải phóng giành lại quyền sống của con người. Với tinh thần khiêm tốn của một dân tộc hàng nghìn năm nô lệ, chúng ta vẫn có quyền nói rằng Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập là việc lớn, công to như Nguyễn Trãi từng nói: “Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu”.
DÒNG CHẢY CỦA TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP 80 NĂM QUA
Sau Tuyên ngôn Độc lập, dân tộc ta phải tiến hành cuộc trường kỳ kháng chiến chống xâm lược 30 năm với tinh thần quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy. Chúng ta chiến đấu để giữ vững quyền tự do và độc lập cho dân tộc Việt Nam, cũng là cho tất cả các dân tộc yêu chuộng tự do và độc lập trên thế giới. Tinh thần nhân văn, nhân nghĩa, chính nghĩa của dân tộc được phát huy cao độ theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước dân chủ, không gây thù oán với một ai” và “tất cả các nước trên hoàn cầu đều được độc lập, tự do”. Nhân loại coi câu nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!” của Hồ Chí Minh có giá trị toàn cầu. Trong đổi mới, chúng ta tuyên bố và thực hiện “là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.

Phố phường Hà Nội rực rỡ cờ hoa, chào mừng 80 năm Quốc khánh 2/9
Có nhiều nhân tố mang lại những thành tựu vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử, tạo nên một cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước ngày càng lớn, trong đó phải kể đến tinh thần nhân văn, khát vọng, niềm tin và sức mạnh của giá trị tự do, độc lập. Kế thừa và phát triển những giá trị trong các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 lần đầu tiên có cả một chương bàn về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật, đồng thời được triển khai từng bước trong thực tế ở các mức độ khác nhau, ngày càng tiến bộ, mở rộng và phát triển. Đảng, Chính phủ đã và đang nỗ lực cố gắng thực hiện tốt nhất chính sách ai cũng được thụ hưởng thành quả của công cuộc đổi mới, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Một dân tộc nhân văn, nhân ái, nhân đạo, hành động vì điều thiện theo ánh sáng Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng nhân loại tiến bộ, đã và đang được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý báu của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.