Chủ tịch lâu nhất của Hội LHPN Việt Nam

22/12/2015 - 13:00
Suốt gần hai chục năm là Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam, bà mẹ anh hùng Nguyễn Thị Thập luôn dành hết trí tuệ và tâm huyết vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
Con trai út vừa sinh được 8 ngày, chị Mười Thập nhận được tin chồng hy sinh. Thế rồi con trai lớn, con trai út cũng lần lượt bỏ chị ra đi sau cuộc chiến chống Pháp, chống Mỹ. Nén chặt những nỗi đau, chị Thập dành hết trí tuệ và tâm huyết vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ.

Trong hoàn cảnh chiến tranh, tờ báo Phụ nữ Việt Nam đã ra đời đều đặn, có cả tờ báo dành riêng cho phụ nữ nông dân. Nhà xuất bản Phụ nữ xuất bản nhiều sách với nội dung phong phú. Trường đào tạo cán bộ phụ nữ liên tục mở lớp. Dù đang chiến tranh, nhiều đoàn phụ nữ nước ngoài, kể cả phụ nữ Mỹ, vượt bom đạn, đến thăm hữu nghị Việt Nam. Uy tín của Hội và uy tín của chị Mười Thập được nâng cao trong phong trào phụ nữ quốc tế.

  Bà Nguyễn Thị Thập (trái) và nhà văn Nguyệt Tú, năm 1970

Chị Thập đã sớm cử cán bộ có năng lực tham gia lãnh đạo ở các bộ, ngành có đông lao động nữ hoặc có khả năng chăm lo cho quyền lợi phụ nữ như Ủy ban bảo vệ Bà mẹ và Trẻ em, Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tư pháp, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
 
Niềm say mê học văn hóa, lý luận là một đức tính nổi bật của chị Nguyễn Thị Thập. Dù bận trăm công nghìn việc nhưng chị vẫn dành mỗi tuần 2 buổi cùng một số cán bộ nghe giáo sư Phan Huy Lê dạy lịch sử.

Chị Thập là người tổ chức và lãnh đạo phong trào phụ nữ rất sắc sảo, có nhiều sáng kiến, tập hợp đoàn kết được các lực lượng phụ nữ trong nước, ngoài nước thành một mặt trận phụ nữ rộng rãi và vững chắc, làm trợ thủ đắc lực cho Đảng và Nhà nước trong công tác vận động phụ nữ đảm đang việc nước, việc nhà trong hai cuộc kháng chiến.

Mỗi khi tổ chức hội nghị tổng kết hoặc sắp sửa Đại hội phụ nữ, chị thường nhắc: “Đã xuống thực tế phong trào dài ngày rồi, nay phải động não nhiều vào, rút ra được cái gì? Không rút ra được bài học kinh nghiệm gì hoặc rút ra được điều không quan trọng thì coi như Đại hội không thành công”.

Trong cuộc sống riêng, chị Nguyễn Thị Thập là một người vợ, người mẹ đã chịu nhiều mất mát, đau thương. Chồng chị hy sinh trong Nam Kỳ khởi nghĩa. Con trai cả là Lương Văn Thuận, hy sinh trong chiến đấu chống Pháp. Con trai út - Lê Văn Quang, hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ.

Khi đang mang thai con trai út, chị vượt sông Cửu Long từ Mỹ Tho sang Bến Tre trên một chiếc xuồng, để sinh con tránh sự khủng bố, đàn áp khốc liệt của thực dân Pháp.

Bà Nguyễn Thị Thập (hàng đầu, bìa trái) với các đại biểu - dự Hội nghị phụ nữ “Ba đảm đang” ngành đường sắt, 1966

Chị Thập kể lúc chia tay chồng và các cán bộ tỉnh ủy: “Ruồng bố mỗi ngày thêm ác liệt. Làng lính xua dân đi lùng sục từng nhà, từng con mương, bờ chuối. Các đầu cầu, ngã ba, ngã tư đường lớn chúng đều thiết lập trạm canh, tìm bắt những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Bây giờ sắp đến ngày sinh nở, phải lo đẻ ở đâu. Anh em tỉnh ủy họp lại bàn. Sau vài phút lúng túng, anh em bàn kế hoạch sẽ đưa tôi vượt sông Cửu Long sang Bến Tre để sinh cháu.

Xuồng đi suốt đêm qua sông Cửu Long. Đường sông chỉ vài mươi cây số nhưng từ nửa đêm gặp con nước ròng, anh Bảy Thường và chị Tám Thẩm người bơi lái, người bơi mũi, bơi không nghỉ tay. Sáng sớm hôm sau mới tới địa giới tỉnh Bến Tre, xem như đã thoát vòng vây của địch ở Mỹ Tho rồi.

Trước khi sinh, tôi không dám ra vào, chỉ nằm đắp mền đọc truyện, sợ có người quen gặp. Mắt nhìn vào trang sách nhưng tâm trí vẫn để ở Long Hưng - Mỹ Tho”.

Là lãnh đạo Nam Kỳ khởi nghĩa từ năm 32 tuổi, chị hoạt động liên tục cho đến những ngày cuối của cuộc đời. Sau ngày thống nhất đất nước, gần 70 tuổi, chị vẫn đi khắp các tỉnh miền Nam để chỉ đạo Tổ sử Phụ nữ Nam bộ, xây dựng Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ và những công trình lớn.

Bà Nguyễn Thị Thập (1908-1996) tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Tốt, quê ở Châu Thành, Tiền Giang. Năm 1931, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và lấy bí danh là Mười Thập, hay Nguyễn Thị Thập.

Bà là một cán bộ lãnh đạo ưu tú của Đảng, lãnh tụ xuất sắc của phong trào phụ nữ, từng đảm nhiệm các trọng trách: Xứ ủy viên Xứ ủy Nam kỳ từ năm 1935, lãnh đạo khởi nghĩa Nam kỳ năm 1940, lãnh đạo giành chính quyền ở Mỹ Tho năm 1945, Hội trưởng Hội LHPN Việt Nam từ 1956 đến 1974, Phó Chủ tịch Quốc hội từ 1956 đến 1982.

Bà đã được tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng và hiện là người phụ nữ duy nhất được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, danh hiệu cao quý nhất của Nhà nước.

Ý kiến của bạn
(*) Nội dung bắt buộc cần có
0 bình luận
Xem thêm bình luận

Nhập thông tin của bạn

Đọc thêm