pnvnonline@phunuvietnam.vn
Chuyển đổi về nhận thức hướng tới sự phát triển xanh, bền vững
Chuyển đổi về nhận thức hướng tới sự phát triển xanh, bền vững
+ Kính thưa Tiến sĩ Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh, ở góc nhìn của một chuyên gia kinh tế, ông đánh giá thế nào về tác động của những chính sách hỗ trợ phát triển sản phẩm của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong thực tiễn đời sống?
Có thể thấy, các Quyết định của Thủ tướng, Chương trình mà Bộ Công Thương triển khai, những Đề án nghiên cứu và đang thực hiện giúp phát triển hàng hóa nói chung và đặc biệt là của đồng bào ở miền núi, đồng bào dân tộc nói riêng lên một tầm cao mới.
Thế nhưng đằng sau câu chuyện này là sự chuyển đổi về nhận thức và tư tưởng phát triển. Chúng ta nói rất nhiều về câu chuyện phát triển bền vững, tăng trưởng, thu nhập cao hơn. Nhưng điều vô cùng quan trọng là bền vững, là xanh, là bao trùm. Và từ phát triển bao trùm chúng ta hay diễn giải là lấy con người là trung tâm, không để ai bị bỏ lại phía sau, đặc biệt là nhóm yếu thế.
Nói đến miền núi chúng ta hay nói đến những khó khăn, đường sá, hạ tầng thông tin, hiểu biết công nghệ... Thế nhưng cũng đừng quên khu vực này có rất nhiều tiềm năng, thế mạnh, nhiều nguyên vật liệu đầu vào quý, tạo ra những sản phẩm tuyệt vời. Bên cạnh đó, bà con có những kỹ năng, tạm gọi là những know-how truyền thống, dù trong thời đại nào thì vẫn còn rất quý và rất đặc sắc. Đồng thời, câu chuyện về sản phẩm ở đây còn gắn với tích truyện, gắn với những truyền thống văn hóa tập tục hấp dẫn.
Đây chính là những yếu tố quan trọng để đưa sản phẩm lên tầm cao mới, đáp ứng được với xu hướng sống, xu hướng tiêu dùng. Xu hướng đó là gì? Là xanh, là an toàn, sạch sẽ. Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Xu hướng ấy là còn phải là nhân văn. Nhân văn ở đây gắn với tư tưởng phát triển, nhân văn là để hỗ trợ cho những cái vùng miền còn khó khăn, nhân văn trong tiêu dùng, trong lối sống. Đấy chính là gắn với các tích truyện gắn với nhiều truyền thống quý báu của đồng bào.
+ Có thể nói, đến nay việc thực hiện các chương trình, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã đem lại những kết quả tích cực. Vậy còn những khó khăn gì còn đang tồn tại, thưa Tiến sĩ?
Còn có không ít khó khăn mà chúng ta thấy rất rõ:
Một là, các thương hiệu nổi tiếng và rất nhiều thương hiệu mới bây giờ sẽ trở nên dần quen thuộc với người tiêu dùng trong nước, kể cả ở những đô thị lớn và bước đầu là ở nước ngoài. Trong đó có các sản phẩm truyền thống và hàng nghìn mặt hàng OCOP mà trong đó của đồng bào dân tộc.
Hai là, độ phủ sóng của các mặt hàng này ở trong nước và ngoài nước. Nếu nói về kinh tế, bà con đã bắt đầu tận dụng được các lợi thế nhờ quy mô và tận dụng hệ sinh thái của sản phẩm, gắn bó chặt chẽ với nhau hơn, được hỗ trợ tốt hơn. Họ không chỉ tận dụng các chương trình mà còn có kỹ năng, công nghệ, đặc biệt là công nghệ số, cách thức quảng bá, cách thức tận dụng những hệ thống phân phối lớn trong và ngoài nước. Đây là những tác động vô cùng tích cực đem lại một cuộc sống tốt hơn cho chính đồng bào, đem lại sự phát triển của vùng. Và quý nữa là điều đó lan tỏa không chỉ là thương hiệu của sản phẩm, của vùng miền mà phần nào đã phản ánh sự phát triển thương hiệu của Việt Nam.
+ Kính thưa Tiến sĩ Võ Trí Thành, để những chính sách thúc đẩy phát triển sản phẩm vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi thực sự đi vào đời sống hơn nữa thì sẽ có sự tham gia và phối hợp như thế nào của các Bộ, ngành địa phương?
Trước khi đi vào câu hỏi thì tôi quay lại một chút về thương hiệu, nhấn mạnh lại vấn đề cạnh tranh. Các sản phẩm của đồng bào có mức độ cạnh tranh rất cao trên thị trường bởi vì nhiều vùng có nhiều sản phẩm mà tên gọi na ná nhau. Thứ hai, là sự cạnh tranh với đồng bào các quốc gia khác, ví dụ như thịt hun khói ở Lào chẳng hạn.
Thế nên trong vấn đề xây dựng thương hiệu, bên cạnh việc lưu ý đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng, những vấn đề như là an toàn vệ sinh, nhân văn… cần đặc biệt lưu ý tính độc đáo, tính khác biệt vùng miền như điều kiện khí hậu, tự nhiên, xã hội, tính đặc sắc về truyền thống, văn hóa ẩn chứa đằng sau sản phẩm. Như vậy là vừa phải gắn mình với xu hướng tiêu dùng, lối sống mới hiện nay.
Quay lại câu hỏi, chúng ta phải hiểu, nhìn rộng ra một chút. Khi chúng ta đang phát triển bao trùm thì vấn đề không chỉ là sinh kế, công ăn việc làm, thu nhập, cải thiện đời sống của đồng bào mà còn có nhiều vấn đề khác. Ví dụ như tiếp cận dịch vụ, giáo dục, y tế phải tốt hơn; các điều kiện bên cạnh làm việc là nghỉ ngơi, giải trí… gắn với bản sắc, truyền thống của họ.
Nói như vậy có nghĩa là sự vào cuộc rộng hơn của các Bộ. Không là chỉ là các Bộ liên quan đến kinh tế, mà còn cần sự chung tay của các Bộ liên quan đến văn hoá, thể thao, du lịch, giáo dục, y tế…
+ Thưa ông, ông rất quan tâm đến việc chung tay phối hợp của các Bộ, ban, ngành cũng như việc đẩy mạnh xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Nhưng bên cạnh đó, doanh nghiệp cần triển khai gì những giải pháp gì để khai thác hiệu quả tiềm năng và nâng tầm sản phẩm của khu vực này?
Từ quan sát, học hỏi, nghiên cứu, tôi lưu ý vài điểm này:
Thứ nhất, giai đoạn hiện nay trong phát triển doanh nghiệp không còn thuần túy là kinh tế truyền thống, theo nghĩa là lợi nhuận, chi phí thông thường, doanh số, năng suất. Bây giờ làm ăn phải gắn với xu thế. Xu thế này không chỉ là cam kết chính trị mà là phát triển bền vững, phát triển xanh, là bao trùm. Điều này là áp lực và đòi hỏi của thị trường. Vậy nên nhiều nghiên cứu cho rằng, tuy phải tốn công hơn, tốn chi phí hơn một chút nhưng về dài hạn thì hiệu quả kinh doanh tốt hơn rất nhiều. Nếu nhân văn, trách nhiệm xã hội cao, chữ "xanh" được doanh nghiệp đề cao thì chắc chắn là được thị trường đón nhận..
Thứ hai, gắn với xây dựng thương hiệu, không chỉ sản phẩm mà bây giờ phải lưu ý cả quy trình. Sắp tới khi xuất sang các nước phát triển, họ đánh thuế xanh, nếu không đảm bảo trong toàn bộ quá trình sản xuất, các tiêu chuẩn về môi trường, trách nhiệm xã hội, quản trị thì doanh nghiệp phải chịu thuế cao hơn, thậm chí là họ tẩy chay.
Nếu doanh nghiệp bị các Hiệp hội tiêu dùng tẩy chay thì còn mạnh hơn cả hiệp định, doanh nghiệp không bán được hàng, mặc dù thuế vào cửa của họ có thể bằng 0.
Khi xây dựng thương hiệu, mình tận dụng những điểm mạnh như có tích truyện, có truyền thống, văn hóa rất nhân văn. Thương hiệu không chỉ là truyền thông mà còn bắt đầu từ người bảo vệ, người làm, từ người đồng bào tham gia vào quá trình làm việc, từ những lãnh đạo. Tất cả đều phải toát lên được các khía cạnh của phát triển bền vững bao trùm thì mới vững mạnh được.
Xin cảm ơn chia sẻ của Tiến sĩ Võ Trí Thành!