Quy mô nhỏ nhưng rủi ro lớn
Ông đánh giá thế nào về thực trạng tín dụng đen ở Việt Nam hiện nay?
Các số liệu thống kê cho thấy, năm 1993, ở Việt Nam, tín dụng phi chính thức chiếm khoảng 60-70% tổng tín dụng nền kinh tế. Đến 2006, tín dụng phi chính thức còn 16-20%, con số này khá phù hợp vì một nghiên cứu theo tôi biết cũng khoảng 20%. Số liệu hiện nay, ước tính quy mô của tín dụng phi chính thức sẽ ở khoảng 15-20% tổng tín dụng của nền kinh tế. Trong đó, quy mô tín dụng đen chiếm khoảng 30-35% tổng tín dụng phi chính thức, tương đương khoảng 6-8% tổng dư nợ nền kinh tế, chỉ tầm 400-500 ngàn tỷ đồng. Quy mô không quá lớn nhưng theo tôi hệ lụy là lớn.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, dư luận đang có nhiều cách hiểu không đúng về tín dụng đen. Trong nền kinh tế, có hai loại tín dụng là chính thức và phi chính thức. Phi chính thức là khái niệm rất rộng và tín dụng đen chỉ là một phần nhỏ trong đó. Ở ta thì vẫn hay cho "đen" là nghĩa xấu, nên khi hình dung về tín dụng đen, mọi người hay có cái nhìn xấu, không tốt.
Thực tế, các tổ chức tài chính ở Việt Nam hiện chưa đáp ứng đủ nhu cầu vay tài chính của người dân, từ đấy phát sinh ra tín dụng phi chính thức, thậm chí tín dụng đen. Rủi ro và hệ lụy của tín dụng đen là rất cao cho cả phía người cho vay (khó thu hồi nợ), người đi vay (lãi suất cao, có nguy cơ vỡ nợ) và rủi ro về mặt pháp lý (rất khó giải quyết). Trong nhiều trường hợp, chủ nợ sẽ tìm cách để thu hồi số tiền đã cho vay bằng cách “xiết nợ”, thậm chí đe doạ, sử dụng “luật rừng” để giải quyết, thu hồi nợ. Ở tầm vĩ mô, tín dụng đen còn gây ra những rủi ro và hệ lụy cho xã hội, làm ảnh hưởng xấu hình ảnh môi trường tài chính của Việt Nam trong mắt quốc tế.
Làm thế nào để người dân có thể dễ dàng nhận diện và phân biệt được tín dụng đen?
Về đặc điểm, tín dụng đen có một số đặc điểm dễ nhận biết. Một là, cho vay quen biết giữa các cá nhân. Hai là, có địa lý gần nhau, chủ yếu xảy ra ở nông thôn. Ba là, không theo chuẩn mực nào, chủ yếu là vay nóng. Bốn là, thủ tục cực kỳ đơn giản, mọi lúc, mọi nơi, mọi yêu cầu, linh hoạt. Năm là, món vay thường nhỏ. Sáu là, tài sản đảm bảo cực kỳ đa dạng, có thể tivi tủ lạnh, sổ đỏ... Bảy là, có thể gia hạn nếu cần. Tám là, cực kỳ rủi ro. Còn về loại hình thức, tín dụng đen thường có 2 loại chính. Một là cho vay tiền gộp, nghĩa là ngắn hạn, yêu cầu trả gốc và lãi hàng ngày. Hai là vay nóng, trả lãi theo ngày, trả nợ gốc vào một thời điểm ấn định, loại này cực kỳ rủi ro vì lãi suất cao. Vay gộp, lãi suất hiện nay khoảng 60-70%. Còn vay nóng lên hơn 100%.
Cần giải pháp đồng bộ
Có ý kiến cho rằng, sở dĩ tín dụng đen có dư địa để phát triển là do hành lang pháp lý của ta hiện vẫn còn nhiều kẽ hở. Quan điểm của ông thế nào?
Trong Bộ luật Dân sự 2015, theo Điều 468 thì trần lãi suất là 20%, nhưng cũng có mở ngoặc là trừ khi luật chuyên ngành có quy định khác. Luật chuyên ngành ở đây là Luật Tổ chức tín dụng. Thực tế, nhiều ngân hàng hay công ty tài chính vẫn áp dụng Luật Tổ chức tín dụng vì cho phép thỏa thuận về trần lãi suất mà không bị xem là vi phạm. Ví dụ cho vay tiêu dùng hiện nay có lúc 40-45% nhưng không vi phạm luật.
Ngoài ra, trong Bộ luật Hình sự có điều khoản quy định tội cho vay nặng lãi nếu gấp 5 lần 20% (tức 100%) thì bị xem là vi phạm và mức thu lợi bất chính từ 30-100 triệu đồng sẽ bị xử phạt, cả phạt hành chính và giam giữ. Tuy nhiên, trong khi luật chuyên ngành lại có điều khoản quy định cho phép thỏa thuận về lãi suất, do đó khi áp dụng Luật hình sự thì lại vướng vào luật chuyên ngành.
Kinh nghiệm của các nước khác trong kiểm soát, ngăn chặn tín dụng đen như thế nào và để ngăn chặn tín dụng đen, cần phải có những giải pháp gì, thưa ông?
Đối với tín dụng đen, rất khó tìm ra khuôn mẫu để áp dụng mô hình quốc tế để xử lý, vì quy mô, bản chất, mức độ, diễn biến, văn hóa của mỗi nước là khác nhau. Ví dụ có nước thì đặt ra mức lãi suất trần, khi bên cho vay vượt qua mức lãi suất đó thì sẽ bị xử lý. Có nước thì lại để lãi suất tự do, tức là tuân theo quy luật cung - cầu, lãi suất do thỏa thuận giữa bên vay và nên cho vay, trừ khi dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng khác thì lúc đó cơ quan chức năng mới can thiệp.
Đối với Việt Nam, để ngăn chặn tín dụng đen, cần phải có giải pháp đồng bộ từ nhiều bộ, ngành, cơ quan chức năng có liên quan chứ không riêng gì mình ngành ngân hàng hay công an. Giải pháp quan trọng đầu tiên là phải tăng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính ngân hàng của người dân, doanh nghiệp, thực hiện tốt quyết định 1626 của Chính phủ về tăng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính ngân hàng, tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển tài chính số, ngân hàng số...
Bên cạnh đó, phải tăng giáo dục tài chính, nâng cao hiểu biết của người dân về các dịch vụ, một là họ sẽ tìm đến tín dụng phi chính thức thay vì tín dụng đen, hai là nâng cao ý thức trả nợ. Hạn chế tội phạm liên quan cho vay nặng lãi, hoàn thiện hệ thống pháp luật, điều này cần sự phối hợp của các cơ quan bộ ngành liên quan.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh phát triển các kênh thị trường vốn, đặc biệt tài chính vi mô để đáp ứng nhu cầu của người dân. Không nên coi tín dụng phi chính thức là xấu, vì người dân vẫn có nhu cầu và chúng ta cũng cần có nguồn cung. Cần phải bóc tách ra, cái nào tín dụng đen thì ngăn chặn, cái nào đáp ứng nhu cầu chính đáng thì nên khuyến khích.
Xin trân trọng cảm ơn ông!