Người vợ đồng cam cộng khổ của Tổng Bí thư Trường Chinh

09/02/2017 - 14:44
Tuy lấy nhau qua sự sắp đặt của gia đình nhưng bà Nguyễn Thị Minh luôn tâm sự với các con rằng, cả cuộc đời mình, bà hạnh phúc, mãn nguyện vì được làm vợ ông. Bà luôn tin rằng, mối lương duyên của bà với ông là mối lương duyên từ kiếp trước.

Kỷ niệm 110 năm ngày sinh Tổng Bí thư Trường Chinh (9/2/1907 - 9/2/2017), Phụ nữ Việt Nam mời bạn đọc cùng nhớ lại những kỷ niệm gần gũi, thân thương giữa ông và người vợ đồng cam cộng khổ của mình.

Tổng Bí thư Trường Chinh tên thật là Đặng Xuân Khu, sinh ngày 9/2/1907 ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Làng Hành Thiện từ xưa đến nay vẫn nổi tiếng là mảnh đất địa linh nhân kiệt, nơi sinh ra nhiều nhân tài kiệt xuất của đất nước. Thân phụ ông là cụ Đặng Xuân Viện, một nhà Nho có tinh thần yêu nước nhưng không gặp thời, gặp thế.

1.jpg
Cố Tổng Bí thư Trường Chinh từng 3 lần đảm trách cương vị Tổng bí thư của Đảng dưới 3 tên gọi khác nhau: Đảng Cộng sản Đông Dương (1941), Đảng Lao động Việt Nam (1952) và Đảng Cộng sản Việt Nam (1986)

Cố Tổng Bí thư Trường Chinh lập gia đình với bà Nguyễn Thị Minh (sinh năm 1912), người cùng làng Hành Thiện, là con gái nhà họ Nguyễn, một dòng họ lớn trong làng. Ngày đó, bà là con gái một gia đình có gia thế, giàu có, còn ông cũng là con của dòng họ Đặng có uy tín trong vùng. Vào năm bà Minh 5 tuổi, gia đình hai bên đã đính ước, hẹn làm thông gia với nhau. Đến năm ông 22 tuổi còn bà 17 tuổi, hai người chính thức nên vợ nên chồng.

Tuy lấy nhau qua sự sắp đặt của gia đình nhưng bà Nguyễn Thị Minh vẫn luôn tâm sự với con cái rằng, cả cuộc đời mình, bà hạnh phúc, mãn nguyện với cuộc hôn nhân đó và bà luôn tin rằng, mối lương duyên của bà với ông là mối lương duyên được xếp đặt từ kiếp trước.

Năm 1930, ông được chỉ định vào Ban Tuyên truyền cổ động Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương. Đến cuối năm ông bị địch bắt. Khi đó bà Nguyễn Thị Minh đang mang thai người con đầu lòng (cố GS Đặng Xuân Kỳ).

Khi người con trai đầu lòng mới được mấy tháng tuổi, bà đã đưa con vào nhà tù Hỏa Lò cho ông xem mặt. Bà đứng ngoài, còn ông đứng trong, chẳng hề nhìn thấy mặt nhau. Muốn để cho ông biết mặt con, bà đã đưa con trai qua cái lỗ châu mai chỉ rộng vài gang tay để cho ông xem mặt. Lúc đó, tên quan Tây chứng kiến sự việc đã nói với ông rằng: Tao biết mày giỏi giang, thông minh, nhanh nhẹn. Mày lại có vợ đẹp con xinh như thế này. Mày đi theo cách mạng làm gì. Mày hãy nghe lời tao. Tao sẽ cho mày sang Pháp học, rồi trở về làm việc cho nhà nước bảo hộ. Nghe những lời của tên quan Tây, ông lập tức hét lên: Lý tưởng của tao là đấu tranh chống áp bức, bóc lột, giải phóng dân tộc. Tức giận trước sự phản kháng của ông, tên quan Tây đã dùng cây gậy sắt đánh vào đầu ông tóe máu, khiến ông loạng choạng, suýt đánh rơi đứa con trên tay. Bà Minh chứng kiến cảnh đó ở ngoài cứ khóc mãi vì thương ông.

Vì không chấp nhận khuất phục nên ngay sau đó, giặc đã tuyên án ông 12 năm tù khổ sai và đưa lên nhà tù Sơn La. Khi đó nghĩ tới việc mình sống chết không biết thế nào, cố Tổng Bí thư Trường Chinh đã nói với người vợ của mình: "Anh đi đợt này không biết bao giờ về, cũng không biết sống chết ra sao. Em về nhà, cố gắng chăm sóc con và tìm một người đàn ông khác để hai mẹ con nương tựa sau này". Khi nghe chồng nói thế, bà Nguyễn Thị Minh chỉ khóc và nói: "Em quyết một lòng một dạ chờ anh trở về”. Lúc nghe những lời son sắt đó từ người vợ hiền, cố Tổng Bí thư Trường Chinh đã xúc động chẳng nói nên lời, ông chỉ biết nắm chặt tay bà và nhìn bà đầy yêu thương và biết ơn.

c-tng-bi-th-trng-chinh-trao-i-vi-con-trai-gs-ng-xun-k-trong-mt-chuyn-i-thc-t.jpg
 Cố Tổng Bí thư Trường Chinh trao đổi với con trai - cố GS Đặng Xuân Kỳ trong một chuyến đi thực tế.

Những ngày chồng đi hoạt động cách mạng, bà Nguyễn Thị Minh chỉ biết âm thầm đứng sau ông, ủng hộ ông và cầu mong ông bình an. Ngày đó, ở quê nhà Nam Định, bà vẫn có thói quen đứng dệt vải và mong ngóng ông trở về. Mỗi lần nhìn thấy dáng người quen thuộc của chồng thấp thoáng ở đầu ngõ, bà mừng vô cùng khi thấy ông bình an, vô sự. Nhưng mừng đó rồi lại lo. Bởi bà hiểu, ngay ngày mai, ông lại tiếp tục ra đi, dấn thân vào những nguy hiểm mà chính bà cũng không thể tưởng tượng nổi.

Ở nhà tù Sơn La những năm đó, cố Tổng Bí thư Trường Chinh vẫn hăng hái gây dựng phong trào trong tù. Ông trở thành người lãnh đạo phong trào của anh em tù nhân tại nhà tù Sơn La. Chính vì thế mà thực dân Pháp luôn nghi ngờ ông là một trong những người đứng đầu phong trào cách mạng. Tuy vậy nhưng đến năm 1936, trong cao trào dân tộc dân chủ, thực dân Pháp buộc phải thả tù binh. Cho rằng vai trò của ông là quan trọng nên nếu những tù binh khác được bọn chúng đưa xe về đến tận Hòa Bình rồi mới tự đi về, thì riêng cố Tổng Bí thư Trường Chinh, chúng lại bắt ông đi cùng một bè gỗ xuôi sông Đà.

Thời đó, những xoáy nước trên con sông Đà hung dữ đã đánh chìm biết bao bè gỗ, cướp đi bao mạng người. Chính vì thế, việc bắt ông đi trên bè gỗ để xuôi về Hà Nội là ý đồ thâm độc của thực dân Pháp. Nhưng cuối cùng ông đã trở về bến Long Biên an toàn rồi tiếp tục xuôi về Nam Định đoàn tụ với gia đình, cha mẹ, vợ con.

Ngày ông bị đi tù khổ sai, cậu con trai đầu lòng mới mấy tháng tuổi, đến ngày ông về, con trai ông đã là 5, 6 tuổi. Lúc bước vào nhà, nhìn thấy có một cậu bé chạy nhảy ngoài sân, ông đã hỏi cha mình: "Thưa thầy, con cái nhà ai đây ạ?". Lúc đó cha ông bật cười, nói: "Con của bay chứ ai!".

Khi kháng chiến toàn quốc nổ ra, các cơ quan đầu não của chính phủ đều di chuyển lên Việt Bắc. Là thành phần gia đình kháng chiến, nên gia đình cố Tổng Bí thư Trường Chinh cũng phải di tản. Cha mẹ ông được đưa vào vùng tự do ở khu 4, còn vợ ông cùng hai người con được đưa lên Việt Bắc. Những năm tháng sống ở Việt Bắc tuy vất vả, khó khăn nhưng là những năm tháng thật sự hạnh phúc của gia đình ông bởi lúc đó cả nhà được sống cạnh nhau, được cùng nhau chia sẻ mọi khó khăn, ngọt bùi.

Biết ông bận rộn lo việc nước, bà đã trở thành hậu phương vững chãi phía sau, chăm sóc con cái chu toàn để chồng có thể yên lòng. Bà sinh người con trai út vào năm 1950 và đặt tên là Việt Bắc để kỉ niệm những năm tháng sống ở chiến khu.

ng-trng-chinh-v-chu-ni-ng-xun-phng-ngy-b.jpg
 Cố Tổng Bí thư Trường Chinh và cháu nội Đặng Xuân Phương hồi nhỏ.

Sau năm 1954, trở về Hà Nội, gia đình ông bà mới được sống chung trong một mái nhà, được ăn chung mâm cơm. Lúc này, bà thường nấu các món ông ưu thích cho chồng, rồi còn đi học y tá để về chăm sóc sức khỏe cho ông…

Cố Tổng Bí thư Trường Chinh lúc nào cũng cảm động trước những sự hi sinh và tình cảm mà người vợ đồng cam cộng khổ dành cho mình, vì thế, ông lúc nào cùng dành tình cảm yêu thương, ân cần và hết mực dịu dàng với bà. Vợ chồng ông sống với nhau hạnh phúc đến tận ngày ông ra đi (30/9/1988).

img-8378-1484842615_660x0.jpg
Ảnh ông chụp cùng đại gia đình trong một dịp sinh nhật. Nhiều năm giữ cương vị lãnh đạo đất nước, bận công tác, Tổng bí thư Trường Chinh ít có dịp về thăm quê. Trong một lần về thăm làng Hành Thiện, ông viết: "Tôi không năng về quê vì bận lo việc chung của cả nước. Tuy vậy, lòng tôi luôn bên cạnh bà con và dõi theo từng bước tiến của quê hương".
 

Ý kiến của bạn
(*) Nội dung bắt buộc cần có
0 bình luận
Xem thêm bình luận

Nhập thông tin của bạn

Đọc thêm