Sử dụng thị trường carbon là xu thế tất yếu để Việt Nam chuyển dịch sang kinh tế xanh
Thị trường carbon là công cụ kinh tế vĩ mô then chốt, thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh
Thị trường Carbon được coi là công cụ kinh tế vĩ mô then chốt, thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh và carbon thấp, đồng thời tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế.
Đây là một trong những nội dung chính sẽ được bàn thảo tại Hội nghị thượng đỉnh khí hậu lần thứ 30 (COP30) đang diễn ra tại Belém, Brazil; cũng là nội dung được nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm, cho ý kiến tại buổi thảo luận về kết quả thực hiện Luật Bảo vệ Môi trường diễn ra vào ngày 28/10 vừa qua, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV.
Để làm rõ hơn về chủ đề này, Báo Phụ nữ Việt Nam đã mời TS. Nguyễn Phương Nam, chuyên gia đại diện duy nhất của Việt Nam trong Ủy ban Cố vấn Sáng kiến minh bạch hành động khí hậu của Liên hợp quốc (ICAT), chia sẻ góc nhìn của một chuyên gia khí hậu quốc tế về những cơ hội, thách thức và sự sẵn sàng của Việt Nam trong lĩnh vực quan trọng này.

TS. Nguyễn Phương Nam, Cố vấn cho Sáng kiến minh bạch hành động khí hậu của Liên hợp quốc (ICAT)
PV: Luật Bảo vệ môi trường quy định về thị trường carbon trong nước, xin ông chia sẻ khái quát và đánh giá về hoạt động xây dựng chính sách liên quan sau khi văn bản luật này được Quốc hội thông qua năm 2020? Việt Nam có được cơ hội nào cũng như phải đối diện với những rủi ro nào khi các quy định pháp luật về chủ đề này?
TS. Nguyễn Phương Nam: Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã đặt nền móng cho thị trường carbon trong nước, phân công Chính phủ quy định chi tiết. Trong 3 năm qua, nhiều văn bản dưới luật đã được ban hành nhưng lộ trình thí điểm và vận hành chính thức liên tục được điều chỉnh, cho thấy sự thiếu nhất quán.
Theo Nghị định 119/2025/NĐ-CP, giai đoạn vận hành chính thức dự kiến từ năm 2029, tuy nhiên, gần đây Quốc hội đề xuất lùi thời điểm thí điểm đến cuối năm 2026, chậm hơn 1,5 năm so với kế hoạch ban hành đầu năm 2025.
Mặt tích cực là việc xây dựng chính sách nhanh và đổi mới so với các quốc gia tương đồng (Mexico, Thái Lan, Indonesia...) đã tạo động lực cho doanh nghiệp chuyển đổi xanh. Rủi ro nằm ở việc thực thi các quy định kỹ thuật, đặc biệt là phân bổ hạn ngạch phát thải KNK và hợp pháp hóa giao dịch tín chỉ carbon tự nguyện, hiện vẫn chưa rõ ràng và đầy đủ.

Tín chỉ carbon rừng là một trong những loại tín chỉ lâu đời và phổ biến nhất, cung cấp một nguồn tín chỉ dồi dào, thu hút các doanh nghiệp muốn bù trừ lượng phát thải hoặc thực hiện trách nhiệm xã hội.
PV: Để vận hành chính thức thị trường carbon vào năm 2028, cần phải hoàn thiện các văn bản dưới luật về giao hạn ngạch phát thải và vận hành hệ thống MRV (Đo lường, Báo cáo và Thẩm định). Theo ông, mức độ sẵn sàng của khung pháp lý và năng lực kỹ thuật của các doanh nghiệp thuộc danh mục phải kiểm kê phát thải KNK hiện nay đang ở đâu so với tham vọng của thị trường carbon theo lộ trình chính thức sau năm 2028?
TS. Nguyễn Phương Nam: Việt Nam còn nhiều hạn chế về cơ sở hạ tầng và năng lực chuyên môn để vận hành thị trường carbon từ năm 2029. Đội ngũ nhân sự chuyên môn trong nước chưa thể đáp ứng được khối lượng công việc khi thị trường tuân thủ và tự nguyện cùng thí điểm.
Về Khung pháp lý: Nguyên tắc chung về phân bổ hạn ngạch đã có nhưng phương pháp luận phân bổ chi tiết cho từng ngành, tiểu ngành và cơ sở vẫn chưa được làm rõ. Trách nhiệm phân bổ giữa Bộ Nông nghiệp và Môi trường và các Bộ quản lý ngành cũng cần được xác định rõ ràng hơn.
MRV là viết tắt của Measurement, Reporting, and Verification (Đo lường, Báo cáo và Thẩm định). Đây là hệ thống quy trình kỹ thuật bắt buộc để đảm bảo dữ liệu phát thải khí nhà kính (KNK) là chính xác, minh bạch và có thể kiểm chứng trong khuôn khổ thị trường carbon.
Về Năng lực MRV: Đây là điểm nghẽn lớn nhất. Hạ tầng MRV cấp quốc gia đang chậm tiến độ và phụ thuộc vào các dự án hỗ trợ kỹ thuật quốc tế. Ở cấp cơ sở, việc thiếu quy định cụ thể về cơ chế thẩm tra, thẩm định độc lập đang khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc đảm bảo chất lượng dữ liệu phát thải, từ đó làm giảm uy tín của hạn ngạch và tín chỉ carbon. Nếu không giải quyết các điểm nghẽn này nhanh chóng, mục tiêu 2029 sẽ cực kỳ thách thức.
PV: Tại buổi thảo luận về kết quả thực hiện Luật Bảo vệ Môi trường diễn ra ngày 28/10, nhiều đại biểu Quốc hội bày tỏ lo ngại về gánh nặng chi phí tuân thủ và ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp khi thị trường carbon được triển khai. Theo ông, Nhà nước cần có những cơ chế hỗ trợ, ưu đãi tài chính nào đủ mạnh và kịp thời để giảm áp lực cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong giai đoạn thí điểm 2025-2027?
TS. Nguyễn Phương Nam: Lo ngại về chi phí tuân thủ là hoàn toàn có cơ sở, nhất là với các Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Để đảm bảo tính công bằng, Nhà nước cần có các cơ chế hỗ trợ tài chính và phi tài chính cụ thể:
Hỗ trợ chi phí xây dựng năng lực MRV cho các DNNVV thuộc danh mục phải kiểm kê.
Thiết lập các gói Tín dụng Xanh với lãi suất ưu đãi đặc biệt cho DNNVV đầu tư đổi mới công nghệ giảm phát thải.
Tuy nhiên, cơ chế thực thi các hỗ trợ này hiện chưa rõ ràng (tiêu chí đăng ký, quy trình phê duyệt, cơ quan chịu trách nhiệm phân bổ vốn). Nếu không sớm ban hành sổ tay hướng dẫn cụ thể, các đề xuất hỗ trợ tài chính sẽ chỉ nằm trên giấy và không thể thực thi kịp thời để giảm áp lực cho doanh nghiệp trong giai đoạn thí điểm 2025-2028.

Việc vận hành thị trường carbon trong nước là chìa khóa thu hút các nguồn vốn quốc tế lớn vào các dự án giảm phát thải trong nước.
PV: Vấn đề minh bạch và giám sát chất lượng tín chỉ carbon luôn là mối quan tâm hàng đầu của Quốc hội. Ông nhận định vai trò của Nhà nước trong việc kiểm soát nguồn gốc, chất lượng và giao dịch tín chỉ như thế nào để đảm bảo thị trường hoạt động hiệu quả, tránh tình trạng giao dịch gian lận hoặc "rửa xanh" (greenwashing)?
TS. Nguyễn Phương Nam: Vấn đề chất lượng và minh bạch là mối quan tâm chung của mọi thị trường carbon. Nhà nước đang đóng vai trò tuyệt đối trong việc xây dựng và quản lý thị trường tuân thủ (hạn ngạch phát thải KNK).
Tuy nhiên, cơ quan quản lý nhà nước hiện chưa có khung pháp lý và năng lực kỹ thuật để tự mình quản lý chất lượng của hạn ngạch phát thải hay tín chỉ carbon tự nguyện. Việc thẩm định chất lượng tín chỉ carbon ở Việt Nam hiện chủ yếu đang theo các tiêu chuẩn quốc tế uy tín (Verra, Gold Standard...).
Thay vì cố gắng tự quản lý chất lượng tất cả các loại tín chỉ, Nhà nước nên tập trung hỗ trợ kỹ thuật và tài chính để các chủ dự án trong nước có thể tiếp cận và tuân thủ các tiêu chuẩn tạo tín chỉ quốc tế. Điều này sẽ gián tiếp nâng cao chất lượng và uy tín của tín chỉ carbon Việt Nam trên thị trường toàn cầu, đồng thời giảm gánh nặng quản lý cho hệ thống quốc gia.
PV: Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã nhấn mạnh định hướng phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và kinh tế carbon thấp. Ông đánh giá tác động của thị trường carbon (Cả trong nước và quốc tế) đối với việc thúc đẩy chuyển dịch mô hình sản xuất và khả năng thu hút vốn FDI xanh của Việt Nam, đặc biệt là sau năm 2028, như thế nào? Ông có lời khuyên nào cho các doanh nghiệp trong nước ngay thời điểm hiện tại không?
TS. Nguyễn Phương Nam: Sử dụng thị trường carbon là xu thế tất yếu để Việt Nam chuyển dịch sang kinh tế xanh và carbon thấp. Việc có thị trường carbon nội địa là bằng chứng cho sự sẵn sàng của doanh nghiệp Việt Nam trước các rào cản thương mại xanh quốc tế (ví dụ: CBAM của EU). Sau năm 2028, khi thị trường chính thức vận hành, nó sẽ gửi một tín hiệu chính sách mạnh mẽ tới quốc tế.
Các nhà đầu tư FDI sẽ coi tiêu chuẩn xanh là ưu tiên hàng đầu. Việc vận hành thị trường carbon trong nước là chìa khóa thu hút các nguồn vốn quốc tế lớn vào các dự án giảm phát thải trong nước (như Thỏa thuận JETP và cơ chế Điều 6 Thỏa thuận Paris).
Lời khuyên cho doanh nghiệp: Doanh nghiệp không nên chờ đến năm 2029 mới hành động. Cần xây dựng chiến lược chuyển đổi xanh và kế hoạch giảm phát thải KNK ngay từ bây giờ để tạo lợi thế cạnh tranh. Song song đó, doanh nghiệp cần đầu tư xây dựng năng lực nội bộ để tự thực hiện kiểm kê KNK, hoặc thuê các đơn vị tư vấn chuyên nghiệp có uy tín. Hành động chậm trễ sẽ đánh mất lợi thế cạnh tranh.
PV: Xin cảm ơn ông!