pnvnonline@phunuvietnam.vn
Vụ tranh chấp quyền nuôi con: Gia đình nên tự bàn bạc, thỏa thuận với nhau
Chị Hoàng Thị H. và biên bản làm việc với Đoàn Văn công Quân Khu 7
Ngày 23/7, Đoàn Văn công Quân Khu 7 đã có buổi làm việc giải quyết quyền nuôi dưỡng cháu Trịnh Công M. (sinh năm 2007). Tại buổi làm việc, Đại tá Hồ Xuân Chung – Chính trị viên Đoàn Văn công đã đề nghị các bên gia đình trình bày ý kiến và đề xuất nguyện vọng của mình.
Chị Hoàng Thị H. (sinh năm 1989) – mẹ ruột của cháu M. đề nghị được đón cháu về Hà Nội nuôi dưỡng. Trung tá Trịnh K.Y. – chị ruột anh Trịnh M.Q. (bố cháu M.) có ý kiến cháu M. ở với ai là hoàn toàn phụ thuộc vào cháu M. Chị Y. không cấm cản và bố cháu M. có đề nghị nhờ chị Y. nuôi hộ. Anh Trịnh Minh Q. hiện đang đi xuất khẩu lao động tại Thái Lan từ năm 2016.
Chị Y. cho rằng, cần phải có ý kiến của bố cháu M. Hiện nay, do đang kẹt Covid-19 nên anh Q. chưa về được. Khi nào anh Q. về sẽ tổ chức gặp nhau để trao đổi, thống nhất.
Đối với anh Trịnh M.Q. (bố ruột cháu M.), chị Y. đã kết nối Zalo trực tiếp từ Thái Lan về. Anh Q. không đồng ý cho chị Hoàng Thị H. đón cháu M. về nuôi mà tiếp tục nhờ chị Y. nuôi cháu M. Tại buổi làm việc, cháu Trịnh.Công M. xin được ở lại với chị Y. để tiếp tục học hành, không muốn về sống cùng với mẹ ruột.
Kết luận của Đại tá Hồ Xuân Chung – Chính trị viên Đoàn Văn công Quân Khu 7 thì đơn vị Đoàn Văn công không có quyền quyết định cho cháu M. về ở với ai. Hai bên gia đình nên ngồi lại, tiếp tục bàn bạc, thống nhất về quyền nuôi dưỡng cháu M. Khi anh Q. về nước, hai vợ chồng bàn bạc, thống nhất quyền nuôi cháu M.
Đại tá Hồ Xuân Chung nhấn mạnh, cần chú ý nguyện vọng thật sự của cháu Trịnh Công M., xem cháu thật sự muốn sống với ai, để có quyết định cho hợp tình, hợp lý.
Như Báo PNVN đã đưa tin, theo trình bày của chị Hoàng Thị H., năm 2006, chị kết hôn với anh Trịnh Minh Q. (cùng ngụ Hà Nội). Chị H. và anh Q. có đăng ký kết hôn tại UBND xã Thanh Hà (huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam).
Trong thời gian chung sống, hai anh chị có với nhau hai người con là cháu Trịnh Công M. (sinh năm 2007) và cháu Trịnh Thủy T. (sinh năm 2010). Trước khi lấy nhau, anh Q. không có nghề nghiệp ổn định. Năm 2013, anh Q. đi xuất khẩu lao động tại Ả Rập Thống Nhất (UAE). Đầu năm 2016, anh Q. kết thúc hợp đồng xuất khẩu lao động và trở về nhà.
Sau khi trở về được 2 tháng, anh Q. không có việc ổn định và thường xuyên tụ tập bạn bè để làm những việc không hay. Chị H. nhiều lần bị chồng bạo hành nên tạm ly thân, bỏ quê lên Hà Nội để tìm việc và sinh sống với con gái từ đó đến nay.
Lúc này, anh Q. cũng bỏ quê và mang theo con trai vào TPHCM để sinh sống. Anh Q. gửi con cho chị ruột là Trịnh Kim Y. đang công tác tại Đoàn Văn công Quân Khu 7 ở số 35 Đào Duy Anh (phường 9, quận Phú Nhuận).
Chị H. biết, con đang sống với bác ruột nên đã chủ động liên lạc để đưa cháu Trịnh Công M. về nuôi dưỡng nhưng chị Y. không đồng ý.
Bộ Luật Dân sự 2015 quy định tại Điều 46, Điều 47, Điều 52 về Giám hộ như sau:
Điều 46. Giám hộ
1. Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ).
2. Trường hợp giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có năng lực thể hiện ý chí của mình tại thời điểm yêu cầu.
3. Việc giám hộ phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Người giám hộ đương nhiên mà không đăng ký việc giám hộ thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ.