pnvnonline@phunuvietnam.vn
Chốt phương án người lao động làm thêm không quá 60 giờ/tháng
Lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7 là một trong các trường hợp không thực hiện thời giờ làm thêm. Ảnh minh họa: KT
Trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo Nghị quyết này, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh cho biết: Về việc mở rộng đối tượng làm thêm giờ trong 1 năm không quá 300 giờ (Điều 1), đa số ý kiến thống nhất chỉnh lý theo hướng bổ sung các trường hợp không thực hiện thời giờ làm thêm theo Nghị quyết này như sau: Người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi; người lao động là người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; người lao động làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7 hoặc từ tháng thứ 6 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; lao động nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Về mức trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng (Điều 2), vẫn tiếp tục có 2 loại ý kiến.
Nhóm ý kiến thứ nhất cho rằng: Việc nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng lên mức không quá 72 giờ là quá cao mà cơ quan soạn thảo chưa đưa ra căn cứ thuyết phục. Do đó, đề nghị chỉ nên nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng từ không quá 40 giờ lên không quá không quá 60 giờ, tương ứng với việc được áp dụng thời gian làm thêm tối đa trong 1 năm từ 200 giờ lên không quá 300 giờ (150%). Đây cũng là ý kiến được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, TƯ Hội LHPN Việt Nam lựa chọn để thực hiện mục tiêu bảo đảm sức khỏe, tái tạo sức lao động, an toàn lao động của người lao động.
Nhóm ý kiến thứ hai đồng tình nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng từ không quá 40 giờ lên không quá 72 giờ như Tờ trình của Chính phủ và cho rằng, đây là mức hợp lý trong bối cảnh hiện nay.
Bà Nguyễn Thúy Anh cho biết, qua xin ý kiến thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội về hai phương án này, Thường trực Ủy ban Xã hội đã tiếp thu ý kiến của đa số thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội và thể hiện Điều 2 của dự thảo theo hướng: Trường hợp người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm tối đa 300 giờ trong 1 năm có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động thì được sử dụng người lao động làm thêm trên 40 giờ nhưng không quá 60 giờ trong 1 tháng.
Về hiệu lực thi hành, các ý kiến thống nhất quy định Nghị quyết có hiệu lực bắt đầu từ 1/4/2022; quy định về thời giờ làm thêm trong 1 năm có hiệu lực từ ngày 1/1/2022.
Liên quan tới đề xuất nâng trần thời gian làm thêm giờ, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh: Vấn đề "hậu Covid-19" khiến người lao động khó có thể duy trì trạng thái sức khỏe, tâm lý tốt để bắt tay ngay vào làm việc. Vì vậy, cần cân nhắc bảo đảm hài hòa lợi ích, giữa lợi ích trước mắt về kinh tế và lợi ích lâu dài về sức khỏe của người lao động trong giải quyết bài toán thiếu hụt lao động hiện nay. Chủ tịch Quốc hội cho rằng, phải hết sức thận trọng, khách quan trong quyết định mức trần số giờ làm thêm trong 1 tháng.