pnvnonline@phunuvietnam.vn
Gia nhập Công ước 105 nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động
Tiếp tục chương trình làm việc Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV chiều nay 20/5, Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh trình bày Tờ trình về việc gia nhập Công ước số 105 của Tổ chức Lao động quốc tế về Xóa bỏ lao động cưỡng bức trước Quốc hội.
Trong bối cảnh Việt Nam đang tăng cường hội nhập kinh tế - quốc tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, theo Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh, việc gia nhập Công ước số 105 là rất cần thiết và có ý nghĩa trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế - xã hội và pháp lý; góp phần khẳng định và thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước, đồng thời tiếp tục khẳng định cam kết chính trị mạnh mẽ của Việt Nam với tư cách là quốc gia thành viên của ILO.
Việc gia nhập và thực hiện Công ước sẽ góp phần ngăn chặn các nguy cơ cưỡng bức lao động, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, giúp cho môi trường lao động ổn định, hài hòa, thông qua đó tác động tích cực đến nâng cao năng suất lao động, giúp hàng hóa của Việt Nam có điều kiện thuận lợi hơn trong việc tiếp cận thị trường quốc tế, từ đó giúp cho nền kinh tế phát triển bền vững và bảo đảm công bằng xã hội tốt hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh cho biết, Công ước số 105 về Xóa bỏ lao động cưỡng bức có 10 Điều. Nội dung Công ước tập trung từ Điều 1 đến Điều 2; từ Điều 3 đến Điều 10 là những quy định về thủ tục.
Điều 1 Công ước quy định mọi quốc gia thành viên của ILO gia nhập Công ước này cam kết bãi bỏ lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc, và cam kết không sử dụng bất kỳ hình thức nào của loại lao động đó.
Điều 2 Công ước quy định mọi Nước thành viên của ILO đã gia nhập Công ước này cam kết sử dụng các biện pháp có hiệu quả nhằm xóa bỏ ngay và toàn bộ lao động cưỡng bức bắt buộc, như đã quy định tại Điều 1 Công ước này.
Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh cho biết, Công ước số 105 không có quy định liên quan đến vấn đề bảo lưu. Nếu Việt Nam gia nhập thì phải chấp nhận toàn bộ nội dung của Công ước.
Qua rà soát nghiên cứu cho thấy các quy định của pháp luật Việt Nam phù hợp với các quy định của Công ước số 105. Vì vậy, Công ước có thể được áp dụng trực tiếp toàn bộ và không có đề xuất, kiến nghị về việc sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện Công ước này.
Về nội dung này, theo Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cho biết: Trong hệ thống luật pháp Việt Nam, lao động cưỡng bức bị nghiêm cấm dưới mọi hình thức và có những chế tài xử lý nghiêm khắc đối với hành vi này và đã được quy định trong Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Lao động...
Công ước số 105 về Xóa bỏ lao động cưỡng bức là một trong 8 công ước cơ bản của ILO và được ILO thông qua ngày 25/6/1957.
Công ước số 105 là Công ước cùng cặp với Công ước số 29 trong nhóm tiêu chuẩn quốc tế về xóa bỏ lao động cưỡng bức (Việt Nam đã gia nhập Công ước số 29 năm 2007)
Việc gia nhập Công ước số 105 phù hợp với đường lối của Đảng, Hiến pháp năm 2013, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm quan điểm xuyên suốt trong chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta là xóa bỏ lao động cưỡng bức, đảm bảo quyền con người, quyền cơ bản của công dân.
Lao động cưỡng bức đi ngược lại các nguyên tắc của kinh tế thị trường, phương hại đến môi trường sản xuất, kinh doanh và xu thế phát triển của quan hệ thương mại quốc tế hiện nay. Lao động cưỡng bức làm méo mó thị trường kinh doanh vì doanh nghiệp tuân thủ tốt lại phải đối mặt với sự cạnh tranh không lành mạnh từ những doanh nghiệp vi phạm pháp luật sử dụng lao động cưỡng bức với chi phí lao động thấp.
Quốc gia càng phát triển càng quan tâm và có xu hướng tẩy chay các loại hàng hóa được làm ra bởi lao động cưỡng bức. Doanh nghiệp của quốc gia bị phát hiện sử dụng lao động cưỡng bức có thể kéo theo những hậu quả tiêu cực. Chính vì thế, việc gia nhập và thực hiện Công ước số 105 của ILO sẽ vừa góp phần bảo đảm môi trường kinh doanh quốc gia lành mạnh, công bằng; vừa góp phần giúp cho hàng hóa của các doanh nghiệp khi xuất khẩu sang thị trường nước ngoài tránh được các rủi ro bị tẩy chay bởi quốc gia nhập khẩu hàng hóa đó.
Việc không sử dụng lao động cưỡng bức trong quá trình sản xuất ra các loại hàng hóa, dịch vụ được coi là một thành phần của "giấy thông hành", giúp hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam tiếp cận thị trường toàn cầu, nhất là thị trường EU và Hoa Kỳ.