pnvnonline@phunuvietnam.vn
Giúp anh nấu ăn, bé 7 tuổi bị đứt gần lìa 2 ngón tay
Ngày 12/10, BV Nhi TƯ cho biết, các bác sĩ Khoa Chỉnh hình của BV vừa nối thành công ngón tay IV-V (bàn tay trái) của bệnh nhi N.Q.T. (7 tuổi, trú tại Quảng Ninh) bị đứt gần rời khi nấu ăn.
Khi được các bác sĩ kiểm tra sức khỏe sau phẫu thuật, mẹ bé vẫn chưa hết hoảng sợ sau tai nạn của con. Mẹ bé cho biết, khoảng 19h ngày 16/9, khi thấy anh trai đang nấu ăn, bé đã với tay lấy thêm củ hành cho anh băm. Không may, anh trai đã băm trượt nên trúng vào tay em. Sau tai nạn, 2 ngón tay số IV-V của bé gần đứt rời, gia đình đã vội vàng băng tạm rồi đưa bé đến trạm y tế, sau đó là BV tỉnh để sơ cấp cứu rồi chuyển lên BV Nhi TƯ.
Bác sĩ Nguyễn Vũ Hoàng, Khoa Chỉnh hình cho biết, bệnh nhi nhập viện trong tình trạng ngón IV-V của bàn tay trái đã bị đứt gần rời, chỉ còn phần da dập nát ở ngón tay. Ngay lập tức bé được các bác sĩ thăm khám, chụp X-Quang, làm các xét nghiệm cần thiết và chỉ định phẫu thuật vi phẫu. "Đây là một tổn thương rất nghiêm trọng, ngón tay IV-V bàn tay trái của trẻ đã đứt toàn bộ gân gấp, gân duỗi và một phần nguồn mạch nuôi, vết thương thấu khớp mẻ diện khớp và xương đốt ngón tay", bác sĩ Hoàng chia sẻ.
Để phục hồi ngón tay cho cháu bé, các bác sĩ đã tiến hành lắp ráp xương, kết hợp xương bằng đinh Kirschner, nối lại gân duỗi và gân gấp ngón tay IV-V bàn tay trái và khâu phục hồi da ngón của bé.
Sau gần 3 tiếng thực hiện, ca phẫu thuật đã thành công. Sau phẫu thuật, các ngón tay đã hồng ấm, sức khỏe bệnh nhi tiến triển tốt. Tuy nhiên, để bàn tay có thể cử động như bình thường, bé vẫn cần một quá trình điều trị chống nhiễm trùng, bất động bột chờ lành thương và tập phục hồi chức năng.
Hướng dẫn bảo quản khi chi đứt rời
TS.BS Hoàng Hải Đức, Trưởng Khoa Chỉnh hình cho biết, mỗi năm, Khoa tiếp nhận rất nhiều trường hợp nhập viện do tại nạn trong sinh hoạt với các mức độ khác nhau. Nhiều trường hợp thương tổn nhẹ, sau điều trị có thể phục hồi, nhưng cũng có những thương tổn nặng không thể phục hồi như đứt lìa ngón, cánh tay, bàn tay, bàn chân, ngón chân. Thậm chí, có trường hợp tai nạn gây nguy hiểm tới tính mạng.
Cũng theo bác sĩ Hải, trẻ nhỏ thường hiếu động, tò mò khám phá môi trường sống xung quanh. Tuy nhiên, trẻ lại chưa có ý thức và kỹ năng phòng, tránh rủi ro có thể xảy ra nên rất dễ gặp phải tai nạn.
Để phòng tránh tai nạn thương tích cho bé, cha mẹ hoặc người chăm sóc trẻ cần để mắt, trông chừng trẻ nhỏ; đánh giá, xem xét bao quát môi trường sống của con, trong đo chú ý đến tình huống nào có thể gây rủi ro cho bé. Đồng thời, trang bị cho con mình những kiến thức cơ bản để tránh xảy ra những tai nạn đáng tiếc.
Trường hợp không may xảy ra tai nạn đứt rời chi thể, cha mẹ cần cho phần chi thể cuốn vào gạc sạch và đựng trong một túi ni lông sạch, buộc lại để trong một túi ni lông khác đựng nước, buộc chặt rồi đặt vào thùng đá lạnh, đảm bảo chi thể đứt rời được giữ nhiệt độ trong khoảng 4 - 10 độ C. Sau đó chuyển ngay trẻ đến cơ sở y tế gần nhất để được sơ cứu kịp thời.
Việc xử trí phần cơ thể bị đứt rời, cần lưu ý những đặc điểm trọng yếu như sau:
- Thực hiện song song việc vận chuyển bệnh nhân đến BV gần nhất và tìm, xử trí, vận chuyển đúng cách phần cơ thể đứt lìa. Không để việc sơ cứu chi đứt lìa ảnh hưởng đến việc cấp cứu tính mạng cho nạn nhân. Thời gian vàng cho việc vận chuyển tốt nhất nên trong vòng 6 tiếng kế từ khi xảy ra tai nạn.
- Đối với bệnh nhân có chi bị đứt lìa cần được sơ cứu rửa vết thương bằng nước chín nguội hoặc nước muối sinh lý sau đó băng ép vết thường bằng vải sạch cầm máu.
Đối với phần chi đứt lìa việc rửa sạch bằng nước chín nguội hoặc nước muối sinh lý cũng được thực hiện đầu tiên. Bên cạnh đó, phần đứt lìa cần được quấn lại bằng băng hoặc vải sạch sau đó cho vào túi nhựa mỏng buộc miệng túi lại và giữ trong môi trường có nhiệt độ thấp. Cụ thể, có thể cho túi nhựa chứa chi đứt lìa vào thùng đá, thau chứa đá hoặc đơn giản nhất là cho vào một túi nhựa khác có chứa đá. Tuyệt đối không để trực tiếp phần đứt lìa vào đá lạnh, vì việc này sẽ tạo ra nhiều tổn thương lên phần chi đứt lìa qua đó ảnh hưởng xấu đến kết quả điều trị nối ghép chi sau đó.