Không để phụ nữ nghèo và lao động nhập cư rơi vào "vùng tối thông tin"
Vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở rất quan trọng
Chuyển đổi số mở ra rất nhiều cơ hội để thu hẹp khoảng cách tiếp cận thông tin, nhưng đồng thời cũng có nguy cơ tạo ra những “hố sâu mới” đối với phụ nữ nghèo và lao động nhập cư.
Cần các mô hình "tổ công nhân số", "điểm tư vấn số lưu động"...
Phụ nữ nghèo là những phụ nữ thuộc hộ nghèo, cận nghèo hoặc đang sống trong điều kiện kinh tế bấp bênh, thu nhập thấp, thiếu ổn định. Phần lớn lao động này không có tài sản tích lũy, ít cơ hội giáo dục, việc làm và hạn chế khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản. Đây cũng là nhóm dễ tổn thương nhất trước biến động kinh tế, thiên tai, dịch bệnh và các rào cản thông tin trong quá trình chuyển đổi số.

PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên chuyên trách, Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội - Ảnh: NVCC
Đối với phụ nữ nghèo, rào cản thông tin không chỉ đến từ thiếu thiết bị số hay chi phí kết nối, mà còn bắt nguồn từ điều kiện sống bấp bênh và hạn chế về kỹ năng tiếp cận. Nhiều người phải ưu tiên mưu sinh hằng ngày nên ít có thời gian tìm hiểu chính sách.
Một số khác gặp khó khăn trong việc sử dụng điện thoại thông minh, đọc - hiểu văn bản hành chính hoặc tiếp cận các dịch vụ công trực tuyến. Những rào cản này khiến phụ nữ nghèo dễ bị bỏ lại phía sau trong quá trình chuyển đổi số và thụ hưởng quyền lợi xã hội.
Đối với phụ nữ lao động nhập cư, họ phải làm việc nhiều giờ, thay đổi nơi ở liên tục, sống trong các khu nhà trọ chật hẹp, họ dễ rơi vào "vùng tối thông tin", không có điều kiện cập nhật các chính sách mới, không biết đến các chương trình hỗ trợ, thậm chí không nắm được quyền lợi cơ bản mà pháp luật đã dành cho họ.
Khoảng cách số cũng biểu hiện rõ ở nhóm này: họ không có thiết bị phù hợp, không có kỹ năng sử dụng, hoặc không đủ khả năng chi trả dữ liệu mạng. Cần tăng cường các điểm hỗ trợ số ngay tại khu công nghiệp, khu chế xuất, khu nhà trọ - đây là những nơi phụ nữ sinh sống đông nhưng tiếp cận thông tin lại hạn chế. Các mô hình "tổ công nhân số", "tổ phụ nữ số", "điểm tư vấn số lưu động" có thể hỗ trợ họ ngay tại nơi sinh sống và làm việc, giúp họ rút ngắn khoảng cách với dịch vụ công và thông tin chính sách.
Theo PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên chuyên trách, Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, cần xây dựng năng lực số cho phụ nữ ở các nhóm này.
"Nhiều chị em, đặc biệt là lao động nhập cư chưa quen sử dụng các dịch vụ công trực tuyến, chưa biết cách tra cứu thông tin chính sách, hoặc không biết nhận diện thông tin giả, lừa đảo trực tuyến. Chúng ta cần các chương trình "cầm tay chỉ việc" - các lớp học ngắn hạn, các buổi hướng dẫn tại cộng đồng, nơi cán bộ địa phương hoặc hội phụ nữ trực tiếp hỗ trợ chị em thao tác trên điện thoại, từ việc cài ứng dụng, đăng ký dịch vụ công, đến cách phòng tránh rủi ro trên mạng. Càng thiết thực, càng gần gũi thì hiệu quả càng cao", PGS.TS. Bùi Hoài Sơn nhấn mạnh.
Ông Bùi Hoài Sơn cũng nhấn mạnh yếu tố "niềm tin số". Phụ nữ yếu thế thường e ngại khi sử dụng các dịch vụ trực tuyến vì lo mất an toàn thông tin, bị lừa đảo hoặc bị lợi dụng. Do đó, ngoài đào tạo kỹ năng, cần truyền thông rõ ràng về an toàn dữ liệu, quyền riêng tư, và tạo một môi trường số lành mạnh hơn, thân thiện hơn. Khi người dùng cảm thấy an toàn, họ mới chủ động tham gia và học hỏi.
Để thu hẹp khoảng cách số đối với phụ nữ nghèo, phụ nữ dân tộc thiểu số và lao động nhập cư, cần một cách tiếp cận kết hợp giữa hạ tầng - kỹ năng - thiết kế sản phẩm - điểm hỗ trợ tại cộng đồng - niềm tin số. Khi những yếu tố này được kết nối hài hòa, chuyển đổi số mới thực sự trở thành động lực để phụ nữ yếu thế tiếp cận thông tin, tiếp cận cơ hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của chính họ.
"Giảm nghèo thông tin" từ thay đổi cách tiếp cận đa kênh
Theo PGS.TS. Bùi Hoài Sơn, để tăng hiệu quả truyền thông chính sách cho phụ nữ yếu thế nói chung, phụ nữ nghèo và phụ nữ lao động nhập cư nói riêng, điều quan trọng nhất là phải đổi cách tiếp cận. Đặc biệt là chuyển từ tuyên truyền đại trà sang truyền thông dựa trên nhu cầu của từng nhóm phụ nữ.
Phụ nữ lao động nhập cư cần thông tin ngắn gọn, dễ hiểu, đến vào thời gian họ rảnh; phụ nữ nghèo ở nông thôn cần thông tin gắn với sinh kế; phụ nữ khuyết tật cần thông tin theo định dạng phù hợp (âm thanh, chữ lớn, ngôn ngữ ký hiệu). Do đó, cơ quan nhà nước, mặt trận và các đoàn thể phải định danh rõ từng nhóm đối tượng, xây dựng hồ sơ nhu cầu thông tin, rồi thiết kế thông điệp phù hợp - ngắn, rõ, hình ảnh nhiều hơn chữ, câu chuyện nhiều hơn khuyến nghị, giải thích nhiều hơn mệnh lệnh.

Hội LHPN xã Trường Sơn, tỉnh Bắc Ninh tổ chức nhiều buổi tập huấn cho hội viên về cách tra cứu thông tin chính sách, hoặc không biết nhận diện thông tin giả, lừa đảo trực tuyến
Cần đổi mới mạnh mẽ phương thức truyền thông ở cơ sở theo hướng gần dân, dễ hiểu, dễ tiếp cận. Ở nhiều nơi, đặc biệt vùng dân tộc thiểu số, vùng công nhân, vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở vẫn rất quan trọng.
Theo PGS.TS. Bùi Hoài Sơn, truyền thông trực tiếp vẫn là hiệu quả nhất. Đây là kênh quan trọng với phụ nữ dân tộc thiểu số, phụ nữ nghèo, phụ nữ lớn tuổi, người ít dùng điện thoại thông minh. Nội dung nên được minh họa bằng tranh ảnh, video ngắn, mô hình sinh hoạt nhóm nhỏ, hướng dẫn trực tiếp thay vì đọc văn bản.
Đối với kênh thông tin bằng mạng xã hội thì cần có định hướng. Nhiều phụ nữ lao động nhập cư sử dụng Zalo, Facebook, TikTok. Các cơ quan cần sản xuất nội dung ngắn, video 30 - 60 giây, infographic, hướng dẫn từng bước bằng ngôn ngữ bình dân, dễ chia sẻ. Hội Phụ nữ các cấp nên có các nhóm Zalo chính thức để cung cấp thông tin cập nhật, đặc biệt là chính sách an sinh, việc làm, chăm sóc sức khỏe; các nền tảng số thân thiện và dễ dùng.
Đối với thông tin trên cổng dịch vụ công, các ứng dụng smartphone cần đơn giản hóa, tích hợp hướng dẫn bằng giọng nói, hình ảnh, song ngữ. Nhiều chị em sẵn sàng tiếp cận công nghệ nếu giao diện dễ, không rườm rà.
Còn hệ thống truyền thanh cơ sở, ông Bùi Hoài Sơn đánh giá đây là kênh rất hiệu quả ở nông thôn, miền núi - nơi phụ nữ thường vừa làm việc vừa nghe loa. Nội dung ngắn, rõ, có phiên bản tiếng dân tộc.
Ngoài ra, cần truyền thông thông qua doanh nghiệp, công đoàn và các khu công nghiệp. Với phụ nữ nhập cư, kênh quan trọng nhất là doanh nghiệp: bảng tin công ty, nhóm Zalo công nhân, buổi sinh hoạt công đoàn, gian tư vấn tại ký túc xá hoặc khu nhà trọ.
"Cốt lõi của mọi cách tiếp cận là đưa thông tin đến nơi họ đang sống và làm việc, thay vì kỳ vọng họ tự tìm đến các nguồn thông tin phức tạp. Khi thông tin đến được với họ bằng đúng ngôn ngữ, bằng đúng kênh, vào đúng thời điểm, và bởi đúng người, chúng ta không chỉ truyền đạt chính sách mà còn góp phần nâng cao năng lực, sự tự tin và vị thế của phụ nữ trong đời sống xã hội", PGS.TS. Bùi Hoài Sơn khẳng định.
