Tính đến quý IV/2024, số LĐPCT ở nước ta là 33,2 triệu người, chiếm 63,6% trong tổng số lao động. Tính chung cả năm 2024, tỷ lệ này là 64,6%.
Nguồn: Cục Thống kê
Ở Việt Nam, LĐPCT chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng lực lượng lao động. Theo PGS. TS Bùi Thị An (nguyên Đại biểu Quốc hội khoá XIII), vai trò quan trọng nhất và dễ nhận thấy của LĐPCT đó là khả năng lấp đầy những khoảng trống lao động trong các ngành dịch vụ thiết yếu, tạo điều kiện cho các thành phố lớn vận hành trơn tru và hiệu quả.
"Có thể nói, LĐPCT là lớp nền tảng không nhìn thấy, cho phép tầng lớp lao động chính thức tập trung vào các hoạt động tạo ra giá trị cao", bà An đưa ra nhìn nhận về vai trò của LĐPCT, "Sự phát triển kinh tế kéo theo sự gia tăng nhanh chóng của lực lượng lao động chính thức, đặc biệt là tầng lớp trẻ. Điều này tạo ra nhu cầu lớn về các dịch vụ hỗ trợ sinh hoạt hàng ngày mà LĐPCT đảm nhận".
Bà An lấy ví dụ với những người làm giúp việc. Họ giúp giải phóng thời gian cho các gia đình, đặc biệt là các lao động nữ trong khu vực chính thức, để họ có thể tập trung vào công việc và sự nghiệp, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.
Đội ngũ xe ôm cũng được đánh giá là nhân tố then chốt trong việc vận chuyển hàng hóa, thư tín và con người một cách nhanh chóng, linh hoạt. Trong một quốc gia có mật độ giao thông phức tạp như Việt Nam, bà An cho rằng, tính linh hoạt này là vô giá đối với chuỗi cung ứng cuối cùng.
Bên cạnh đó, một bộ phận LĐPCT như những người thu gom phế liệu (đồng nát) theo bà An cũng đóng một vai trò quan trọng mà ít được công nhận đó là góp phần giải quyết vấn đề môi trường đô thị.
"Công việc của họ không chỉ để mưu sinh mà còn thực hiện thu gom, phân loại và tái chế rác thải ngay từ nguồn, giúp giảm tải gánh nặng cho hệ thống xử lý rác thải công cộng, vốn đang quá tải tại nhiều thành phố lớn. Đây là một đóng góp trực tiếp vào mục tiêu phát triển bền vững, giúp đô thị sạch hơn, giảm thiểu ô nhiễm và tạo ra chuỗi cung ứng nguyên liệu thô tái chế hiệu quả, mang tính kinh tế tuần hoàn", bà An chia sẻ.
Mỗi công việc sẽ có một vai trò riêng góp phần thúc đẩy nền kinh tế. Ảnh: Thanh Tùng
Vị Đại biểu Quốc hội khoá XIII cho biết thêm, vai trò thứ hai của LĐPCT đó là cung cấp cơ hội việc làm, tạo thu nhập cho một bộ phận lớn dân số, qua đó giảm áp lực thất nghiệp và ổn định xã hội.
"Ở Việt Nam, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa đã thu hồi nhiều đất nông nghiệp, khiến không ít người dân nông thôn mất đi sinh kế truyền thống. Do đó, LĐPCT cung cấp một con đường mưu sinh cho những người không có đất, những người tận dụng thời gian nông nhàn hoặc chưa đủ điều kiện (thiếu bằng cấp, kỹ năng) để tham gia vào thị trường lao động chính thức.
PGS.TS Bùi Thị An, đại biểu Quốc hội khóa XIII
Dòng lao động từ nông thôn ra thành thị, dù phi chính thức nhưng sẽ giúp phân phối lại lao động một cách tự nhiên, nơi mà cơ hội việc làm và thu nhập ở thành phố luôn cao hơn ở nông thôn. Từ đó, LĐPCT trở thành cầu nối giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang dịch vụ và công nghiệp", bà An nhìn nhận.
Còn theo ông Lê Quang Trung, nguyên Phó Cục trưởng phụ trách Cục Việc làm - Bộ LĐ-TB&XH, khu vực kinh tế phi chính thức đã tạo mở những công ăn việc làm cho người lao động và đã thu hút một lực lượng lớn lao động vào khu vực này. "LĐPCT có một vị trí hết sức quan trọng, họ làm những công việc mà tất yếu trong xã hội cần phải có", ông Trung đánh giá.
Trong nhiều năm qua, dù Nhà nước đã có nhiều chương trình, chính sách khuyến khích người dân tham gia BHXHTN nhưng thực tế cho thấy tỷ lệ LĐPCT tham gia vào chính sách này vẫn còn thấp.
Năm 2022, nước ta có hơn 1,4 triệu người tham gia BHXHTN (đạt tỷ lệ bao phủ 3,18% dân số). Năm 2023, con số này tăng lên khoảng 1,9 triệu người (4,09%) và năm 2024 là gần 2,3 triệu người (4,8%). Mặc dù có sự tăng trưởng qua các năm nhưng số người tham gia BHXHTN vẫn còn khiêm tốn so với tổng số lao động. Vậy, câu hỏi được đặt ra là: Tại sao LĐPCT lại không mặn mà với các chính sách an sinh xã hội?
Kết quả khảo sát năm 2024 của TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy và ThS. Nguyễn Thị Thu Hiền (Học viện Phụ nữ Việt Nam) với 192 phụ nữ di cư tại Hà Nội cho thấy tỷ lệ tham gia BHXHTN còn rất thấp, chiếm chưa đầy 20% (chỉ 38 người tham gia).
Khảo sát cũng chỉ ra sự thiếu hụt lớn của nhóm đối tượng về nhận thức chính sách. Theo đó, chỉ 5,2% số người biết rõ mức đóng BHXHTN; 15,1% hiểu rõ đối tượng tham gia và chưa đến 20% nắm được quy định về trợ cấp thai sản. Dù nhóm phụ nữ trẻ thường có hiểu biết đầy đủ hơn, song nhìn chung mức độ nắm bắt thông tin vẫn còn thấp. Không những thế, qua khảo sát cho thấy, nhóm đối tượng này còn gặp nhiều rào cản khi muốn tham gia BHXHTN.
Khó khăn lớn nhất là thiếu thông tin (54,7%), tiếp theo là thu nhập thấp và bấp bênh (29,7%). Ngoài ra, thủ tục hành chính còn rườm rà (28,1%) và 17,2% cho biết họ hạn chế về kỹ năng sử dụng công nghệ.
Đáng chú ý, trong nhóm đối tượng được khảo sát, phần lớn có điện thoại thông minh và thường xuyên sử dụng Internet nhưng việc khai thác các kênh chính thức như ứng dụng VssID lại rất ít. Điều này cho thấy khoảng cách lớn giữa "khả năng có thiết bị" và "khả năng thực sự tham gia", khiến họ dù có nền tảng công nghệ, vẫn chưa tìm thấy sự an tâm để gắn bó với BHXHTN.
PGS.TS Nguyễn Thị Hoài Lê, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Con người, Gia đình và Giới, cho rằng, việc nhiều LĐPCT, đặc biệt là phụ nữ, chưa tham gia hoặc hưởng lợi ích từ các chính sách an sinh xã hội (cụ thể là BHXHTN) không nằm ở sự phức tạp của thủ tục hay xu hướng kinh tế mới mà là sự thiếu hụt và không ổn định trong thu nhập của họ.
Theo bà Lê, mặc dù BHXHTN được thiết kế để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nhóm lao động này nhưng tỷ lệ tham gia vẫn ở mức thấp. Theo quy định, lao động tự đóng BHXHTN sẽ phải đóng ở mức 22% trên tổng thu nhập, thấp hơn đáng kể so với mức đóng BHXH bắt buộc qua doanh nghiệp (32%, trong đó người lao động đóng 10,5%).
"Tuy nhiên, chính mức đóng 22% lại trở thành rào cản quá lớn. Việc phải trích ra gần 1/4 thu nhập để đóng BHXHTN là một gánh nặng tài chính không hề nhỏ đối với nhóm người vốn đã có thu nhập thấp và bấp bênh như LĐPCT. Mặc dù mức 22% này được đánh giá là hợp lý và tương đương với mức đóng ở nhiều quốc gia khác (khoảng 22 - 24% thu nhập) nhưng nó không phù hợp với thực tế kinh tế của người dân Việt Nam trong phân khúc này", bà Lê cho biết.
PGS.TS Nguyễn Thị Hoài Lê.
Chính vì thế, trong trường hợp phải lựa chọn, theo bà Lê, người lao động buộc phải ưu tiên cuộc sống trước mắt (chi phí sinh hoạt, ăn uống, học hành) thay vì lo lắng dài hạn cho tuổi già. Họ hầu như không có khả năng tài chính để tạm gác lại 1/4 thu nhập của mình cho mục tiêu hưu trí, dù biết rằng lương hưu là điều cần thiết.
PGS.TS Bùi Thị An cũng đồng tình với nhận định yếu tố kinh tế, thu nhập tác động trực tiếp dẫn đến việc LĐPCT ít mặn mà với các chính sách an sinh xã hội. "Khoản tiền đóng BHXHTN bị coi là một khoản "chi phí" hơn là một khoản "tích lũy" hoặc "đầu tư" lâu dài. Mặc dù mức đóng BHXHTN đã rất linh hoạt nhưng với người thu nhập quá thấp, kể cả mức đóng tối thiểu cũng sẽ là một gánh nặng lớn", bà An chia sẻ.
Một nguyên nhân khác, theo bà An đó là phần lớn LĐPCT cho rằng, các quyền lợi từ BHXHTN như lương hưu chỉ nhận được sau nhiều năm đóng (hiện tại là 15 năm). Điều này khiến họ không cảm nhận được lợi ích trước mắt, nhất là khi đem so sánh với các rủi ro có thể xảy đến ở tương lai gần (ốm đau, mất việc).
Các chuyên gia nhận định yếu tố kinh tế, thu nhập tác động trực tiếp dẫn đến việc LĐPCT ít mặn mà với các chính sách an sinh xã hội.
Ngoài ra, nhiều lao động phi chính thức chưa được tuyên truyền đầy đủ, rõ ràng về các chế độ, quyền lợi và thủ tục tham gia BHXHTN dẫn đến tâm lý e ngại, không tin tưởng vào chính sách. Bên cạnh đó, thủ tục đăng ký, đóng tiền, và đặc biệt là thủ tục hưởng các chế độ (như lương hưu) có thể bị coi là phức tạp và rườm rà.
Không những thế, bà Bùi Thị An cho rằng, tính chất công việc và những rào cản về chính sách cũng là một trong những yếu tố chưa kéo người lao động đến gần với các chính sách an sinh xã hội. "LĐPCT thường thay đổi chỗ làm, nơi ở, hoặc nghề nghiệp. Điều này gây khó khăn cho việc duy trì đóng phí liên tục và quản lý hồ sơ BHXH. Khác với lao động chính thức được doanh nghiệp đóng BHXH bắt buộc, LĐPCT phải tự chịu trách nhiệm hoàn toàn, không có sự giám sát, nhắc nhở hoặc hỗ trợ từ bên thứ ba", bà An chia sẻ.
(Còn nữa)
Lễ cúng bến nước của người M’Nông hồi sinh giữa đại ngàn Đam Rông
Văn hóa 08:06 17/12/2025“Lễ cúng bến nước” của đồng bào M’Nông tại xã Đam Rông 4 - Lâm Đồng đã được phục dựng hoành tráng, mang đậm bản sắc và linh thiêng vào sáng ngày 16/12/2025. Đây chính là thành quả đầy đầy ý nghĩa phát xuất từ khát khao tìm lại những giá trị văn hóa lâu đời đã và đang mai một dần của bà con người M’Nông cùng với sự hỗ trợ, tạo điều kiện của Cục Văn hóa các Dân tộc (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) và chính quyền địa phương.
Thế nước và lòng dân trong giai đoạn phát triển mới của đất nước (phần 3)
Thời cuộc 09:04 12/12/2025Trong tư duy phát triển hiện đại, lòng dân không chỉ là yếu tố chính trị - xã hội, mà là nguồn lực chiến lược, là "sức mạnh mềm" có vai trò quyết định trong tạo lập thế nước và trong việc duy trì ổn định - phát triển bền vững.
Đại hội đại biểu Phụ nữ tỉnh Ninh Bình lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030: Tầm nhìn dài hạn, khát vọng lớn
Giới & Phát triển 17:04 09/12/2025Trước thềm Đại hội đại biểu Phụ nữ tỉnh Ninh Bình lần thứ I, bà Đào Thị Hòa, Ủy viên BCH TƯ Hội LHPN Việt Nam, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Ninh Bình chia sẻ về mục tiêu, nhiệm vụ, kỳ vọng của phụ nữ Ninh Bình trong nhiệm kỳ 2025-2030.
Thế nước và lòng dân trong giai đoạn phát triển mới của đất nước (Phần 2)
Thời cuộc 16:55 07/12/2025Những thành tựu toàn diện trong gần bốn thập kỷ đổi mới đất nước đã tạo nên một thế nước vững vàng, tự tin, mở ra các thời cơ phát triển mới. Đây là nền tảng quan trọng để Đảng và Nhà nước tiếp tục lãnh đạo đất nước bứt phá mạnh mẽ trong những thập niên tới.
Ngôi nhà mới mang theo hy vọng hồi sinh sau bão lũ
Xã hội 09:35 07/12/2025Mất sạch nhà cửa và tài sản sau đêm bão kinh hoàng, vợ chồng bà Lý Thị Yến ở xóm Phố (xã Dân Tiến, Thái Nguyên) tưởng chừng gục ngã trước nghịch cảnh. Thế nhưng từ trong bùn lầy hoang tàn, một ngôi nhà mới đang dần mọc lên mang theo niềm hy vọng về sự hồi sinh diệu kỳ.
Tiếp nối mạch nguồn, phát huy giá trị văn hóa đồng bào Giẻ Triêng qua Lễ Mừng lúa mới
Văn hóa 20:03 06/12/2025Lễ hội Mừng lúa mới của đồng bào Giẻ Triêng vừa được phục dựng tại làng Đăk Răng (xã Dục Nông, tỉnh Quảng Ngãi) đã minh chứng cho nỗ lực gìn giữ bản sắc văn hóa của cộng đồng nơi đây. Giữa nhịp sống hiện đại, các giá trị truyền thống của đồng bào Giẻ Triêng vẫn không ngừng được tiếp nối. Tiếng cồng chiêng vang vọng trong điệu múa xoang và hiện hữu trong dáng nhà rông cùng nụ cười hồn hậu của những người con Cao nguyên.
Thế nước và lòng dân trong giai đoạn phát triển mới của đất nước (Phần 1)
Chuyên đề 19:24 05/12/2025Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam luôn biết kết hợp sức mạnh của “thế nước” và “lòng dân” để vượt qua muôn vàn thử thách, biến nguy thành cơ, biến yếu thành mạnh. Hai khái niệm này không chỉ là phạm trù lịch sử – văn hóa, mà còn là nền tảng của triết lý phát triển quốc gia trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong hiện thực phát triển hiện đại của đất nước. Khi thế nước vững chãi, lòng dân quy tụ thì sức mạnh quốc gia được nhân lên gấp bội; ngược lại, khi lòng dân phân tán, niềm tin suy giảm, thế nước khó có thể đứng vững trước những biến động của thời cuộc.
Hồi sinh từ “rốn lũ” Thái Nguyên và bài toán ứng phó thảm họa thiên nhiên khốc liệt
Xã hội 06:34 03/12/2025Chưa kịp gượng dậy sau siêu bão Yagi với đỉnh lũ kỷ lục trên sông Cầu, người dân Thái Nguyên lại oằn mình trước bão Matmo, khi mực nước tiếp tục dâng thêm hơn 2m so với mức Yagi vừa thiết lập. Gần 2 tháng sau thảm họa, tại những vùng trũng ven sông Cầu, cuộc sống đang dần hồi sinh bằng nghị lực phi thường và tình người ấm áp giữa bùn lầy.
















