Tiếng nói nhân văn, thông điệp hòa bình từ phim Việt

Trải qua hơn 7 thập niên phát triển, điện ảnh Việt Nam không chỉ là chứng nhân lịch sử của các cuộc chiến tranh vệ quốc, mà còn là cánh cửa mở ra thông điệp hòa bình và hữu nghị. Từ "Cánh đồng hoang", "Hà Nội mùa đông năm 46" đến "Đừng đốt" hay "Địa đạo: Mặt trời trong bóng tối", các nhà làm phim Việt đã biến những ký ức đau thương thành di sản văn hóa - ngoại giao, góp phần gắn kết Việt Nam với bạn bè quốc tế bằng tiếng nói nhân văn, đối thoại và thông điệp về hòa bình.

Điện ảnh là nghệ thuật ghi lại ký ức dân tộc, phản ánh chiều sâu tâm thức xã hội và tinh thần thời đại. Với Việt Nam, một đất nước từng trải qua nhiều cuộc chiến tranh để bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, điện ảnh đã trở thành chứng nhân lịch sử sống động. Từ những bộ phim tài liệu chiến trường cho đến các tác phẩm phim truyện điện ảnh kinh điển, các nhà làm phim Việt Nam không chỉ khắc họa hiện thực chiến tranh khốc liệt, mà còn gửi gắm khát vọng hòa bình, tinh thần nhân văn và mong muốn hòa giải với các dân tộc từng ở bên kia chiến tuyến.

Tiếng nói nhân văn, thông điệp hòa bình từ phim Việt- Ảnh 1.

Nhân vật Bác Hồ (do diễn viên Tiến Hợi đóng) trong phim "Hà Nội mùa đông năm 46"

 

Phim về chiến tranh gửi gắm thông điệp hòa bình

Bước sang thời kỳ đất nước thống nhất và hội nhập, các tác phẩm điện ảnh về đề tài chiến tranh không còn chỉ để cổ vũ chiến đấu, mà đã chuyển mình thành những thông điệp đối thoại văn hóa. Những bộ phim chiến tranh của điện ảnh Việt Nam, đặc biệt từ cuối thế kỷ XX đến nay, cho thấy sự thay đổi căn bản trong tư duy thẩm mỹ và nhân sinh quan của các nhà làm phim. Không chỉ dựng lại chiến tranh như một bối cảnh lịch sử, các tác phẩm này đã khéo léo lồng ghép những thông điệp về sự cảm thông, tình người và khát vọng sống trong hòa bình. Một số trường hợp điển hình dưới đây cho thấy rõ sự chuyển dịch từ tư duy đối kháng sang đối thoại trong cách tiếp cận đề tài chiến tranh của các nhà làm phim Việt Nam.

Ký ức Điện Biên (2004, đạo diễn Đỗ Minh Tuấn) do Hãng phim truyện Việt Nam thực hiện và được nhà nước cấp kinh phí để kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Bộ phim diễn ra theo lời kể của Bạo, một lính vệ quốc đoàn trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhiều năm sau chiến tranh, ông gặp lại Bernard, người hàng binh trước kia. Vào thời gian chiến tranh, Bernard là một lính Pháp quyết định đầu hàng đối phương. Bernard gặp Bạo và được Bạo đưa về vùng hậu cứ. Trong chuyến hành trình, Bernard bị thương và được y tá Mây chăm sóc, rồi Bạo và Bernard cùng có cảm tình với cô y tá Mây xinh đẹp. Chứng kiến khí thế hào hùng của quân và dân Việt Nam, Bernard thay đổi thái độ, quay sang ủng hộ Việt Minh, nhưng anh vẫn ấp ủ những kỷ niệm về đồng đội cũ của mình. Trong một đêm mưa, khi thấy vắng Bernard, nghĩ rằng Bernard bỏ trốn, Bạo đã vác súng đi tìm để giết anh. Mây đuổi theo can ngăn Bạo nhưng không được. Khi chứng kiến cảnh Bernard ngồi khóc giữa bãi xác đồng đội, Bạo như tỉnh ngộ. Sau đó, Bạo và Bernard thực sự thành bè bạn. 

Ký ức Điện Biên hấp dẫn khán giả ở sự đan xen giữa ký ức và hiện tại, sự kết hợp khéo léo giữa hồi tưởng quá khứ và mong ước tương lai. Bên cạnh những hình ảnh đậm chất chiến tranh như những hào bốt, những tiếng bom đạn, cảnh chiến đấu hay những xác chết la liệt trên chiến trường, khán giả còn thấy được khao khát hòa bình qua điệu múa cầu hồn hay hình ảnh những người lính Pháp hóa thành những con bồ câu trắng trong trí tưởng tượng của Bernard được đạo diễn thể hiện trong bộ phim.

Tiếng nói nhân văn, thông điệp hòa bình từ phim Việt- Ảnh 2.

Một cảnh trong phim "Ký ức Điện Biên"

 

Hà Nội mùa đông năm 46 của đạo diễn Đặng Nhật Minh là bộ phim kể về giai đoạn lịch sử đặc biệt khi Hà Nội chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Bộ phim dựng lại chân dung chủ tịch Hồ Chí Minh qua những sự kiện chính trị - xã hội mùa đông năm 1946, thể hiện cuộc đấu tranh ngoại giao vì hòa bình của Bác trong không khí căng thẳng của Hà Nội trước ngày toàn quốc kháng chiến. Hình ảnh Bác Hồ trong phim qua sự nhập vai của nghệ sĩ Tiến Hợi hiện lên vừa trang trọng vừa gần gũi qua những nét chấm phá như cảnh Bác gặp gỡ các cụ phụ lão từ Thái Bình lên thăm hay mối quan hệ gần gũi thân tình với người họa sĩ vẽ chân dung Người… Đặc biệt, khát vọng hòa bình của Bác được thể hiện qua những lá thư Bác viết gửi tới Cao ủy Pháp - Sainteny như thể hiện thông điệp hữu nghị, không muốn chiến tranh. Điều này còn được gửi gắm qua nhân vật Lâm - liên lạc viên giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cao ủy Pháp Sainteny trong nỗ lực ngoại giao, đàm phán hòa bình. Đạo diễn Đặng Nhật Minh từng chia sẻ: "Tôi làm phim "Hà Nội mùa đông năm 46" vào năm 1997, nhưng ý định làm bộ phim này nảy ra trong đầu tôi cách đấy 15 năm, khi lần đầu tiên được xem bộ phim "Ghandi" của điện ảnh Ấn Độ. Tuy phương thức đấu tranh cho độc lập dân tộc của hai nhà cách mạng có khác nhau, nhưng tư tưởng hiếu hòa của Ghandi cũng có trong con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh, và điều đó thấy rõ nhất vào giai đoạn 1946 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh cố gắng nhân nhượng với phía Pháp bằng mọi cách để tránh không xảy ra chiến tranh."

Một bộ phim khác của đạo diễn Đặng Nhật Minh mang đậm thông điệp hòa giải giữa hai dân tộc Việt Nam và Mỹ là phim Đừng đốt. Trong Đừng đốt, hình tượng nhân vật nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm được ông khắc họa rất đẹp và chân thực. Ngoài ra, những nhân vật khác cả ở hai phía Việt Nam và Mỹ cũng được xây dựng theo hướng rất nhân văn, đầy tình người. Nhà văn hóa Hữu Ngọc trên báo Sức khỏe và Đời sống ra ngày 16/3/2014 đã phân tích: "Phim Đừng đốt có một leitmotiv (nét chủ đạo được lặp đi lặp lại) là lửa. Vượt lên ngọn lửa bom đạn chiến tranh tàn phá là ngọn lửa lý tưởng thiêng liêng của con người thể hiện trong Nhật ký, những giá trị nhân bản của Đừng đốt. Thoát thai từ chủ đề ấy, phim đã mang một tầm vóc độc đáo". Đặng Nhật Minh nói: "Tôi muốn làm một phim chiến tranh để nói về hoà bình!" Không giống hàng loạt phim chiến tranh của ta ca ngợi những chiến công anh hùng - thể loại đã bị mòn, Đừng đốt mang triết lý "cái chai ném xuống biển" của Vigny. Hiếu và Fred đã vớt được cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm với bản thông điệp nhiều ý nghĩa: Yêu Tổ quốc, yêu con người, tính nhân văn, cái thiện không biên giới, không phân biệt màu da, vượt qua hệ tư tưởng, hòa giải, yêu hòa bình và đời sống chân thực, giản dị... Một bản thông điệp quốc tế". 

Tư tưởng chủ đạo của bộ phim, và điều mà chị Đặng Thùy Trâm chinh phục được đối phương chính là lòng nhân ái, tình thương yêu con người của chị. Trong phim không có cảnh nào chị cầm súng mà chỉ có tình thương là vũ khí, là sức mạnh của chị. Đạo diễn chia sẻ kỉ niệm về một lần chiếu phim ở một trường đại học bên Mỹ. Sau khi xem xong có một anh người da màu đứng lên nghẹn ngào nói: "Tôi có người anh chết trong chiến tranh Việt Nam. Từ khi anh tôi chết tôi rất căm ghét người Việt Nam. Nhưng hôm nay xem xong bộ phim này thì tôi không còn căm giận nữa. Tôi quên hết sự thù hận đó, vì đúng là con người ở đâu cũng giống nhau!".

Tiếng nói nhân văn, thông điệp hòa bình từ phim Việt- Ảnh 3.

Cảnh phim “Địa đạo: Mặt trời trong bóng tối”

Còn rất nhiều bộ phim chiến tranh khác của điện ảnh Việt Nam đã gửi gắm và truyền tải khát vọng hòa bình cùng thông điệp hòa giải, hữu nghị, đúng theo tinh thần "biến thù thành bạn", "từ đối đầu chuyển sang đối thoại" của Nhà nước ta. Những nhà làm phim đương đại vẫn tiếp nối âm hưởng đó với những tác phẩm điện ảnh đáng chú ý thời gian gần đây. Trong đó, nổi bật là bộ phim Địa đạo: mặt trời trong bóng tối của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên ra mắt đúng dịp kỉ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và gặt hái nhiều thành công. Cả bộ phim phản ánh sự đối đầu khốc liệt, không cân sức giữa một bên là đội du kích Bình An Đông chỉ có 21 người với vũ khí thô sơ, bám trụ dưới lòng đất, với một bên là quân đội Mỹ trang bị khí tài tối tân, đông đảo trên mặt đất và bầu trời. Tuy nhiên, đến cuối phim, đạo diễn vẫn gửi gắm thông điệp nhân đạo, yêu chuộng hòa bình và mong muốn hòa giải với cảnh người lính Mỹ bị thương được các du kích thả trên bè có làn khói trắng để đồng đội đến cứu. Một cảnh phim ngắn nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa, bởi phải đặt trong bối cảnh chiến tranh ác liệt và sự đối đầu không khoan nhượng trước đó mới thấy rằng quyết định thả tù binh – từng là kẻ tử thù đến để tiêu diệt mình – khó khăn và cũng cao cả như thế nào. Cảnh phim này gợi nhớ đến cảnh kết ấn tượng trong bộ phim chiến tranh nổi tiếng của điện ảnh Việt Nam là Cánh đồng hoang của đạo diễn Hồng Sến thực hiện năm 1979. Kết phim là cảnh phi công Mỹ chết trong chiếc trực thăng bị bắn rơi, tấm ảnh chụp vợ con của anh ta rơi ra từ túi áo. Đã có nhiều ý kiến nên cắt bỏ cảnh này. Tuy nhiên, nó vẫn được giữ lại để cho người xem hiểu rõ hơn về lính Mỹ, họ cũng là người bình thường, có vợ và con như Ba Đô, nhưng do Chính phủ Mỹ mà họ phải dứt bỏ gia đình để sang Việt Nam tham chiến để rồi thiệt mạng ở một nơi xa lạ. Chính những cảnh kết ngắn nhưng hàm chứa nhiều thông điệp ý nghĩa như vậy đã nâng tầm các bộ phim đến giá trị nghệ thuật và nhân văn sâu sắc hơn.

Phát huy giá trị di sản điện ảnh Việt Nam trong hội nhập quốc tế

Trên hành trình hội nhập và phát triển, điện ảnh không chỉ là phương tiện nghệ thuật, mà còn là công cụ ngoại giao văn hóa mạnh mẽ. Di sản điện ảnh Việt Nam – đặc biệt là các tác phẩm đề tài chiến tranh mang thông điệp nhân văn, hòa giải – chính là những chất liệu quý giá để Việt Nam thúc đẩy quan hệ hợp tác và hữu nghị với cộng đồng quốc tế.

Tiếng nói nhân văn, thông điệp hòa bình từ phim Việt- Ảnh 4.

Cảnh trong phim "Cánh đồng hoang"

Sau năm 1975, điện ảnh Việt Nam từng bước chuyển hướng từ tư tưởng đối kháng sang thông điệp hòa hợp. Điều này không chỉ phản ánh một giai đoạn lịch sử mới của đất nước, mà còn thể hiện một tầm nhìn chiến lược về văn hóa và đối ngoại: biến ký ức đau thương thành cầu nối đồng cảm, dùng nghệ thuật để đối thoại, thay vì đối đầu. Những bộ phim như Đừng đốt, Ký ức Điện Biên hay Địa đạo: Mặt trời trong bóng tối không chỉ có giá trị nghệ thuật mà còn là "thông điệp mềm" trong công cuộc ngoại giao nhân dân giữa Việt Nam và các quốc gia từng tham chiến.

Chính vì vậy, việc bảo tồn, phát huy và lan tỏa di sản điện ảnh - đặc biệt là những tác phẩm mang thông điệp hòa bình và hữu nghị - cần được xem là một trong những ưu tiên trong chiến lược hợp tác văn hóa quốc tế. Đây không chỉ là nhiệm vụ của ngành điện ảnh, mà còn cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ngoại giao, giáo dục, Viện lưu trữ phim và báo chí - truyền thông. Các bộ phim giá trị trong kho lưu trữ quốc gia cần được số hóa, phụ đề nhiều ngôn ngữ, tổ chức chiếu phim và giao lưu tại các đại sứ quán, trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài; đồng thời, cần có cơ chế thúc đẩy hợp tác sản xuất phim với các quốc gia nhằm tạo ra những bộ phim liên kết ký ức - kết nối tương lai.

Bên cạnh đó, việc đào tạo thế hệ đạo diễn, biên kịch trẻ có tầm nhìn quốc tế, am hiểu lịch sử và nhân văn cũng là nhân tố then chốt để tiếp nối tinh thần điện ảnh hướng tới hòa bình. Những sáng tạo nghệ thuật của thế hệ mới sẽ là cầu nối giúp thế giới hiểu hơn về Việt Nam - một dân tộc từng trải qua chiến tranh, nhưng luôn khao khát hòa bình, sẵn sàng đối thoại và kiến tạo tương lai bằng tinh thần bao dung và nhân văn.

Trên hành trình hơn 70 năm phát triển, điện ảnh Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm, đặc biệt là trong việc phản ánh chiến tranh dưới lăng kính nhân văn, hòa giải và hướng thiện. Những tác phẩm như Cánh đồng hoang, Hà Nội mùa đông năm 46, Đừng đốt, Ký ức Điện Biên, hay gần đây là Địa đạo: Mặt trời trong bóng tối đã góp phần làm giàu thêm kho tàng di sản văn hóa dân tộc, đồng thời trở thành cầu nối quan trọng trong hoạt động ngoại giao văn hóa.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc bảo tồn và phát huy những giá trị đó không chỉ giúp Việt Nam khẳng định bản sắc trên trường quốc tế, mà còn tạo ra nền tảng vững chắc cho mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với các quốc gia. Điện ảnh, với khả năng lay động cảm xúc con người vượt qua mọi ranh giới địa lý và chính trị, sẽ tiếp tục là sứ giả của hòa bình, là tiếng nói nhân văn nối kết quá khứ và hiện tại, ký ức và tương lai.

19/08/2025 10:37