GS.TSKH Phạm Thị Trân Châu là Chủ tịch Hội Nữ trí thức Việt Nam, Chủ tịch Hội Hóa sinh - Sinh học phân tử Việt Nam. Ở tuổi ngoài 80, khi được hỏi về sự nghiệp của mình, bà Phạm Thị Trân Châu thường nhắc nhiều đến mẹ - người đã tạo cho bà những bước đi đầu tiên trong hành trình xây dựng sự nghiệp.
Tiểu thư con quan, dòng dõi trâm anh thế phiệt
Cụ bà thân sinh GS.TSKH Phạm Thị Trân Châu là cụ Lê Thị Hành. Cụ Hành là con út của nhà khoa bảng Lê Đỉnh (1840-1933), quê ở làng La Kham (nay thuộc xã Điện Quang, TX Điện Bàn, Quảng Nam). Cha cụ Hành từng trải qua các chức vụ như Binh bộ Thượng Thư, Tổng đốc Hà Yên (Hà Nội, Hưng Yên) 1882 - 1884 và cũng từng đi sứ sang Tân Gia Ba (Singapore), Hương Cảng (Hồng Kông - Trung Quốc).
Nhà Nho Lê Đỉnh có tư tưởng canh tân và tiến bộ, nên đều cho các con cái được học hành, bởi vậy cụ Hành ngoài việc học nữ công gia chánh còn được cha cho phép học chữ Nho cùng các anh trai. Không chỉ dừng lại ở đó, khi xu hướng Tây học phát triển, cụ Hành được cha cho phép lên Huế để học chữ Quốc ngữ dưới sự kèm cặp của hai anh trai – y sĩ, chí sĩ Lê Đình Dương (1893-1919) và bác sĩ Lê Đình Thám (1897-1969).
Tuy nhiên, phận gái lại không quá ham thích việc học nên cụ đã dừng bước, lập gia đình với một giáo chức tại Huế và ít lâu sau đó cụ sinh con là bà Phạm Thị Trân Châu (SN 1938).
Nổi chìm theo phận nước điêu linh
Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, rồi toàn quốc kháng chiến (12/1946), cha bà Châu khi đó đang dạy học ở Trường Nữ sinh Đồng Khánh đi theo cách mạng, đã rời Huế đi dạy học ở các trường thuộc Vùng kháng chiến thuộc Liên khu 4 (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh…). Bà Châu khi đó đang học ở Trường Nữ sinh Đồng Khánh cũng phải dừng việc học, cùng mẹ và các em đi tản cư về quê ở Điện Bàn (Quảng Nam). Chẳng được bao lâu, quân Pháp lại đến chiếm và lập đồn bốt, cuộc chiến tranh lan rộng, nhân dân toàn quốc kháng chiến.
Vào một đêm, Điện Bàn vang dội tiếng súng, tiếng bom đạn thì sáng hôm sau giặc Pháp đến nhà ông bà nội và các thân nhân lục soát, truy tìm cán bộ cách mạng. Vì còn nhỏ, không hiểu chuyện gì đã xảy ra nhưng bà Châu vẫn nhớ được, lúc đó thấy mẹ và các o của mình, ai cũng nước mắt lưng tròng. "Tất cả anh chị em của mẹ tôi, không nhà nào không có liệt sĩ. Có những người ngay từ đầu kháng chiến đã là cảm tử quân, riêng nhà tôi thì toàn con gái nên không có. Có lẽ vì vậy, mẹ tôi có một tình cảm đặc biệt đối với những anh bộ đội", bà Châu chia sẻ.
Tất cả anh chị em của mẹ tôi, không nhà nào không có liệt sĩ. Có những người ngay từ đầu kháng chiến đã là cảm tử quân, riêng nhà tôi thì toàn con gái nên không có. Có lẽ vì vậy, mẹ tôi có một tình cảm đặc biệt đối với những anh bộ đội"
GS. TSKH Phạm Thị Trân Châu
Sau đó, vì không muốn sống một lần nữa trong vùng tạm chiến của thực dân Pháp, cụ Hành một thân một mình đưa 4 con nhỏ đi tìm về vùng kháng chiến tự do ở phía Nam (Quảng Ngãi, Bình Định…). Về những thời khắc này, trong trí nhớ của bà Châu vẫn còn hiện rõ mồn một, "Hai em bé nhất, mỗi em ngồi một bên thúng để mẹ gánh, còn tôi thì lẽo đẽo chạy theo sau". Vượt hàng trăm km, sau nhiều ngày vất vả, cụ Hành và các con đã đến được vùng kháng chiến tự do thuộc Liên khu V ở xã Bồng Sơn (huyện Hoài Nhơn, Bình Định).
Tại đây, vì không có nơi ở nên mẹ con bà Châu được một người dân cho mượn một mảnh đất trong vườn, dựng tạm căn nhà tranh vách đất, diện tích bên trong chỉ đủ kê chiếc giường. Ở căn nhà này, về sau mỗi khi bộ đội đi qua địa bàn, cụ Hành cũng như biết bao người dân khác đều đón vài ba anh bộ đội về nhà mời ăn uống. "Nhà tuy lúc đó không đủ gạo, nhưng hễ có gì ngon nhất, mẹ tôi đều mang ra đãi các anh. Nhưng chiến tranh ác liệt, có những anh một đi đã không trở lại", bà Châu hồi tưởng.
Vượt khổ cực, quyết cho các con có "cái chữ"
Sống trong cảnh chồng công tác ở xa, cụ Hành đã không quản ngại bất cứ việc gì để nuôi 4 con nhỏ. Cụ làm các loại bánh như bánh chưng, bánh ú, bánh đậu xanh, bánh gato… đem bán. Tuy cuộc sống không đủ ăn là vậy, nhưng đối với việc học của các con, cụ có một sự quan tâm đặc biệt. Cả 4 người con của cụ, ai cũng được đi học. Trong đó, nổi bật nhất là bà Châu, tuy bà không làm nổi một câu lục bát trong giờ tập làm Văn, nhưng đối với các môn khoa học tự nhiên, đặc biệt là môn Toán, bà lại đạt kết quả tốt.
Thấy được sự vất vả của mẹ, ngoài việc lo chăm học, thời gian còn lại bà dành toàn bộ để giúp mẹ và chăm sóc các em nhỏ. Có những khi vừa học bà tranh thủ đan áo, phụ giúp mẹ những việc vặt. Hoặc có những lúc tranh thủ thời gian, bà đi thu mua ít hoa quả ở cách nhà vài cây số để đem bán. Khi đó gần nhà có một bà vợ ông bác sĩ tốt bụng, thương cô bé vừa hiếu học vừa ham làm, nên mỗi khi thấy bà Châu gánh hàng về đều nói: "A, về đây rồi, để bác mua hết cho!".
Với thành tích học tập tốt, bà Châu là một trong 6 học sinh của một lớp 7 được chọn vào học lớp 8 của Trường cấp III ở huyện Phù Cát (Bình Định). Cả Liên khu V gồm nhiều tỉnh, nhưng khi đó chỉ có hai trường cấp III. Tuy nhiên, vì trường học cách nhà quá xa, cộng thêm với việc trong nhà còn các em nhỏ, nên cụ Hành phân vân trước việc cho con gái lớn đi học tiếp: "Vì dù sao ít ra ở nhà còn có cái ăn, đi học xa biết mang gì đi ăn?".
Thấy vậy, hàng xóm có động viên cụ Hành, "Có con cái giỏi giang như thế này, bao nhiêu nhà mới có một người, trong khi cháu nó lại là nữ sinh duy nhất của lớp được học lên cao. Cứ cho con học đi, thiếu đến đâu chúng tôi cho mượn". Nhưng vì là một người khái tính, cụ Hành phải rất đắn đo và trước sự chân thành của mọi người, cộng thêm với sự thuyết phục của thầy cô, bà Châu đã được mẹ cho phép đi học tiếp.
Có con cái giỏi giang như thế này, bao nhiêu nhà mới có một người, trong khi cháu nó lại là nữ sinh duy nhất của lớp được học lên cao. Cứ cho con học đi, thiếu đến đâu chúng tôi cho mượn"
Tựu trường, bà Châu mới thấy, hóa ra nhiều bạn còn có hoàn cảnh khó khăn hơn mình, vì có bạn chỉ mang hạt mít, hoặc khoai, sắn. Từ đây đã giúp bà hiểu thêm rằng, hoàn cảnh càng khó khăn bao nhiêu thì mình càng phải cố gắng khắc phục bấy nhiêu.
Hình ảnh về mẹ là hành trang mang theo trên hành trình lập nghiệp
Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ (7/1954) được ký kết, hầu hết học sinh lớp 8, lớp 9 ở Liên khu V được tập kết ra miền Bắc học tập. Ra đây, bà được học hết phổ thông ở ngôi trường danh tiếng - Trường Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An. Đến tháng 9/1956, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội được thành lập, bà trở thành khóa sinh viên đầu tiên của trường.
Năm 1959, tốt nghiệp ngành Sinh học với kết quả tốt, bà Châu được giữ lại ở trường làm cán bộ giảng dạy. Sau nhiều năm được đào tạo, giảng dạy, nghiên cứu ở trường, đến năm 1974 bà đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ (Đại học Tổng hợp Lo'dz' Ba Lan) và năm 1985 đã bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ khoa học (Đại học Wroclaw Ba Lan) theo hướng nghiên cứu enzym.
Nỗ lực trên con đường nghiên cứu, đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu về enzym, bà đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật như: Sử dụng Bromelain tách chiết từ chồi ngọn dứa – như chế phẩm Prozimabo để ứng dụng thử nghiệm trong điều trị bỏng tại Viện bỏng Quốc gia; Chế phẩm Prozima để thuỷ phân các protein thịt bò và một số loại đậu để làm bột dinh dưỡng cao cấp cho trẻ em, làm mềm thịt và sản xuất các loại nước mắm ngắn ngày...
Với những đóng góp lớn cho ngành Sinh hóa học nước nhà, năm 1988, GS. TSKH Phạm Thị Trân Châu đã được trao giải thưởng Kovalevskaia - giải thưởng mang tên nữ toán học người Nga lỗi lạc thế kỷ 19 Sophia Kovalevskia (1850-1891). Cùng với đó, bà cũng được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều danh hiệu và phần thưởng cao quý như: Nhà giáo ưu tú, Huân chương Lao động hạng Nhì… và nhiều bằng khen khác.
Giờ đây, khi nhìn lại con đường sự nghiệp của mình, bà Châu thường nhắc nhiều đến mẹ. Một người mẹ thông minh và nghiêm khắc, hết lòng vì sự học hành của con cái, một người mẹ hết lòng thương yêu bộ đội, không khuất phục trước đói rét và gian khổ, hết lòng vì cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ của dân tộc. Và chính những hình ảnh đó về mẹ đã tạo nền tảng vững chắc trong hành trình xây dựng sự nghiệp của bà.
Thực hiện: Trường Hùng
Ảnh: NVCC