pnvnonline@phunuvietnam.vn
Lần đầu tiên ký Hiệp định song phương Việt Nam - Hàn Quốc lĩnh vực BHXH
Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Đào Ngọc Dung và Bộ trưởng Bộ Y tế & Phúc lợi Xã hội Hàn Quốc Kwon Deok Cheol Ký hiệp định song phương về Bảo hiểm xã hội. Ảnh: Molisa
Văn phòng Bộ LĐ-TB&XH cho biết: Sáng nay (14/12) tại Thủ đô Seounl, Hàn Quốc, dưới sự chứng kiến của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái và lãnh đạo một số cơ quan của Quốc hội, Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Đào Ngọc Dung và Bộ trưởng Bộ Y tế và Phúc lợi Xã hội Hàn Quốc Kwon Deok Cheol đã Ký hiệp định song phương về Bảo hiểm xã hội giữa Việt Nam và Hàn Quốc.
Những năm qua, người lao động Việt Nam đi làm việc tại Hàn Quốc và người Hàn Quốc đến làm việc tại Việt Nam ngày càng tăng và đều có nghĩa vụ tuân thủ luật pháp của cả hai nước; quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ cũng được bảo vệ bởi luật pháp của hai nước, trong đó có quyền và nghĩa vụ tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH).
Theo đó, Hiệp định song phương này có 2 mục đích chính:
Thứ nhất là tránh việc đóng hai lần BHXH
Theo Bộ LĐ-TB&XH, nếu hai nước không có Hiệp định song phương về BHXH thì người lao động Việt Nam khi làm việc tại Hàn Quốc và người lao động Hàn Quốc khi làm việc tại Việt Nam sẽ phải đóng BHXH tại cả Việt Nam và Hàn Quốc. Trong trường hợp hai nước có Hiệp định song phương về BHXH thì sẽ tránh được việc người lao động phải đóng BHXH hai lần. Người lao động là công dân 2 nước sẽ chỉ có nghĩa vụ đóng BHXH tại một nước.
Thứ hai là thời gian đóng BHXH sẽ được hai bên công nhận lẫn nhau
Thời gian tham gia đóng BHXH của người lao động là công dân Việt Nam và công dân Hàn Quốc sẽ được tính là tổng thời gian mà người lao động đó đã tham gia đóng BHXH ở Việt Nam và Hàn Quốc. Tổng thời gian này sẽ là căn cứ để Quỹ BHXH Việt Nam và Quỹ Hưu trí quốc gia Hàn Quốc xét người lao động hưởng chế độ lương hưu.
Mức hưởng chế độ mà Quỹ BHXH của mỗi nước chi trả cho người lao động khi về hưu sẽ căn cứ vào thời gian và mức đóng mà người lao động đã đóng vào quỹ đó. Công thức tính được quy định theo luật pháp của mỗi nước.
Đánh giá tác động của Hiệp định, theo Bộ LĐ-TB&XH, Hiệp định có hiệu lực, quyền lợi về BHXH của người lao động Việt Nam khi đi làm việc có thời hạn tại Hàn Quốc (cũng như người lao động Hàn Quốc làm việc tại Việt Nam) sẽ được bảo đảm bởi luật pháp của cả hai nước và thời gian để làm căn cứ xét hưởng chế độ hưu trí đối với người lao động Việt Nam có thời gian làm việc tại Hàn Quốc sẽ được bình đẳng như những người lao động Việt Nam khác.
Về mức hưởng, người lao động sẽ được hưởng đầy đủ, bình đẳng căn cứ theo cách tính mức thụ hưởng theo quy định của luật pháp mỗi nước theo nguyên tắc đóng - hưởng.
Theo Hiệp định, việc đóng và hưởng được thực hiện theo nguyên tắc là người lao động đóng BHXH ở đâu thì hưởng ở đó và mức hưởng được xác định bởi thời gian và mức mà người lao động đã đóng vào quỹ BHXH tại nước đóng. Bởi vậy, việc thực hiện Hiệp định sẽ không có tác động đến vấn đề thu - chi tài chính của quỹ BHXH của bên nào.
Hiệp định đã được hai bên thống nhất gồm 5 Phần với 24 Điều, trong đó có nội dung chính:
- Phạm vi áp dụng là liên quan tới chế độ hưu trí và tử tuất theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 của Việt Nam và Luật Hưu trí quốc gia của Hàn Quốc (Điều 2);
- Đối tượng là người lao động Việt Nam và người lao động Hàn Quốc có thời gian làm việc tại hai nước và đang chịu sự điều chỉnh của pháp luật về BHXH của hai nước (Điều 3);
- Hiệp định quy định nguyên tắc đối xử bình đẳng, cụ thể là công dân của một bên khi làm việc trên lãnh thổ của bên kia thì được đối xử bình đẳng như công dân của nước sở tại trong việc xác định các điều kiện đóng, hưởng, chi trả các chế độ BHXH (Điều 4);
- Một trong những nội dung quan trọng của Hiệp định là quy định cách tính thời gian làm căn cứ để xác định chế độ hưu trí đối với người lao động là tính tổng thời gian mà người lao động đã tham gia đóng BHXH ở cả hai nước (cộng dồn) và cách tính các chế độ bảo hiểm là căn cứ theo luật pháp của mỗi nước (Điều 10);
- Hiệp định sẽ có hiệu lực từ ngày thứ nhất của tháng thứ hai kể từ tháng mà mỗi Bên nhận được thông báo chính thức bằng văn bản của bên kia (Điều 23).