Tham dự hội nghị có khoảng 150 đại biểu bao gồm đoàn đại biểu cấp bộ trưởng và các quan chức cấp cao phụ trách các vấn đề phụ nữ và bình đẳng giới đến từ các nước thành viên, lãnh đạo và đại diện các cơ quan Liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ quốc tế và khu vực có liên quan đến lĩnh vực an sinh xã hội, phụ nữ và trẻ em. Về phía Việt Nam có Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Bộ trưởng Bộ lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung, Ủy viên TW Đảng, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Nguyễn Thị Thu Hà và lãnh đạo, đại diện các Bộ, ban, ngành có liên quan.
Phát biểu tại hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, không thể trở thành Cộng đồng ASEAN đoàn kết, tự cường, sáng tạo, phát triển bền vững nếu thiếu sự tham gia quan trọng của phụ nữ và trẻ em gái. Để làm được điều này, mỗi phụ nữ, trẻ em gái đều phải có quyền bình đẳng trong gia đình và xã hội, được học hành, được phát triển, được bảo vệ và được thực hiện những quyền năng chính đáng của mình.
Theo Thủ tướng, kể từ năm 1967 đến nay, phụ nữ ASEAN đã có những cống hiến rất tích cực vào tăng trưởng và thịnh vượng của các nước thành viên. Về y tế, tuổi thọ của phụ nữ đã tăng lên đáng kể với tỉ lệ nữ trong độ tuổi từ 60-64 đã tăng 3,7% năm 2015, tỉ lệ sinh sớm của phụ nữ trong độ tuổi 15-19 ở khu vực đã giảm từ 77% xuống 37%. Các cơ hội giáo dục được mở rộng. Tỉ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội tại nhiều quốc gia ASEAN đã đạt mức trên 20%. Số lượng phụ nữ làm chủ doanh nghiệp đã tăng đáng kể gần đây, nhiều phụ nữ là chủ tịch hội đồng quản trị hay giám đốc điều hành các tập đoàn, doanh nghiệp lớn.
Ở Việt Nam, Chính phủ đã chủ động triển khai, lồng ghép các sáng kiến, ưu tiên khu vực vào các chương trình, đề án ở cấp quốc gia nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và tăng cường an sinh xã hội cho phụ nữ và trẻ em gái. Hàng năm, Chính phủ dành khoảng 2,6% tổng GDP cho các chính sách, chương trình về trợ giúp xã hội, trong đó có phụ nữ và trẻ em gái. Điểm nổi bật là nỗ lực thực hiện Luật Bình đẳng giới 2006 và Công ước của Liên hợp quốc về Xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ.
Phụ nữ Việt Nam chiếm hơn 50% dân số. Tỉ lệ tham gia lực lượng lao động của lao động nữ Việt Nam đạt 70,7% năm 2017. Tỉ lệ phụ nữ làm chủ doanh nghiệp tăng, có tới 98% số doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ có quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ. Tỉ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội khóa XIV (2016-2021) đạt 27,1%, mức cao ở khu vực và thế giới. Tỉ lệ nữ tham gia bảo hiểm xã hội chiếm gần 50% trong tổng số người tham gia. Tỷ lệ phụ nữ là những nhà nghiên cứu khoa học, chủ các đề án, đề tài cấp Bộ, cấp nhà nước tăng lên rõ rệt.
Tuy nhiên, dù phụ nữ chiếm 45% lực lượng lao động ở khu vực Đông Nam Á (với dân số hơn 640 triệu người và quy mô GDP hàng năm tăng khá đồng đều), nhưng mức thu nhập của phụ nữ trong khu vực nói chung vẫn thấp hơn nam giới làm cùng một công việc, chênh lệc trung bình lên tới 25% ở một số quốc gia. Theo báo cáo của UN Women, nền kinh tế ASEAN đã tăng trưởng mỗi năm ở mức 5% trong thập kỉ vừa qua và dự kiến sẽ tăng thêm 30% trong giai đoạn 2013-2025 nhưng phụ nữ chỉ đóng góp vào 11% tổng giá trị xuất khẩu của ASEAN. Những vấn đề này thúc giục chúng ta phải chung tay hành động và có các giải pháp hiệu quả để nâng cao vị thế của phụ nữ trong thời đại mới.
Hướng tới Cộng đồng ASEAN luôn là một nơi đáng sống và một khu vực an toàn, bình đẳng cho tất cả mọi người; đặc biệt là phụ nữ và trẻ em gái, Thủ tướng mong muốn Hội nghị Bộ trưởng phụ nữ ASEAN lần thứ 3 sẽ thảo luận và đưa ra các khuyến nghị mạnh mẽ để trình lên Lãnh đạo cấp cao ASEAN.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh đến 3 nội dung hợp tác sau:
Một là, đào tạo và tăng cường các kỹ năng mới cho phụ nữ, hình thành mạng lưới học tập suốt đời tại ASEAN, phù hợp với sự biến đổi liên tục của nghề nghiệp trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Hai là, đảm bảo việc làm bền vững cho tất cả mọi người, chấm dứt mọi rào cản đối với phụ nữ trong việc tiếp cận các nguồn lực, việc làm.
Ba là, tăng cường an sinh xã hội cho phụ nữ và trẻ em gái, đặc biệt thông qua việc hoàn thiện thể chế, luật pháp, chính sách bảo hiểm xã hội; mở rộng độ bao phủ tới mọi đối tượng, bao gồm khu vực phi chính thức và người lao động di cư.