Từ vụ Big C ngừng nhập hàng Việt: Cơ hội để doanh nghiệp Việt hoàn thiện

07/07/2019 - 17:03
TS Đinh Thị Mỹ Loan, Chủ tịch Hiệp hội Bán lẻ Việt Nam (AVR) nhận xét, vụ siêu thị Big C vừa qua ra thông báo tạm ngừng nhập hàng Việt một lần nữa cho thấy, đã đến lúc các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam cần phải nâng cao năng lực để phù hợp với tình hình mới.
Phải hài hòa lợi ích các bên
 
Đối với doanh nghiệp cung ứng hàng hóa, mà ở đây là các doanh nghiệp may mặc và phía Big C - doanh nghiệp bán lẻ thì cả hai đều cùng có chung mục đích là phải đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng, tức là phải có cái hàng hóa chất lượng tốt nhất, đa dạng, giá thành hợp lý…
 
Quan hệ giữa doanh nghiệp bán lẻ với nhà cung ứng đều phải dựa trên cơ sở hợp đồng với tinh thần hợp tác, hỗ trợ nhau. Trong vụ việc trên, phía Big C đã xử lý vụ việc kịp thời để nối lại đối thoại với bên nhà cung ứng, đồng thời sẽ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những hậu quả xảy ra từ những quyết định đơn phương của mình.
 
tsdinhthimyloan.jpg
Bà Đinh Thị Mỹ Loan: "Thời gian tới hàng Việt sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt với hàng ngoài, ở góc độ nào đó, đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp trong nước tự hoàn thiện mình, cải thiện chất lượng sản phẩm, mẫu mã, giá thành để từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh hơn".

 

Những quan tâm, lo lắng cho các doanh nghiệp cung ứng, thậm chí bức xúc của dư luận xung quanh việc siêu thị Big C ra thông báo tạm ngừng nhập hàng may mặc của Việt Nam vừa qua là điều dễ hiểu. Tuy nhiên đối với mọi vấn đề xảy ra, mọi sự khác biệt và tranh chấp tranh chấp đều có thể giải quyết trên cơ sở hợp đồng giữa các bên và quy định của pháp luật thông qua các phương thức giải quyết như thương lượng trực tiếp, hòa giải hoặc đưa ra tòa án/trọng tài.
 
Về ý kiến cho rằng “Big C đang cố tình “hất” hàng Việt ra khỏi hệ thống bán lẻ của mình để đưa hàng ngoại vào độc chiếm thị trường”, chúng ta cần nhìn nhận vấn đề thấu đáo, chính xác và khách quan hơn. Thực tế cho thấy, nguồn cung cho các nhà bán lẻ lớn (cả Việt Nam lẫn FDI) phần lớn là hàng Việt Nam, tỷ lệ từ 60 – 70% cho đến 90% hoặc hơn. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy hầu như không có nhà bán lẻ FDI lớn nào chỉ kinh doanh hàng của nước mình hoặc hàng nhập mà không chú trọng hàng hóa của nước sở tại nơi họ đầu tư.
 
Các doanh nghiệp bán lẻ không thể chỉ bán hàng của các nước chủ sở hữu của hệ thống bán lẻ ấy mà phải luôn luôn bán cả hàng nội địa, tức hàng hóa của quốc gia đang là thị trường sở tại. Thậm chí, hàng nội địa còn luôn có tỉ lệ cao hơn so với hàng của nước chủ sở hữu hoặc hành nhập, bởi đây không phải chỉ là ý muốn chủ quan của doanh nghiệp bán lẻ mà còn do yêu cầu khách quan của thị trường, cụ thể là nhu cầu đòi hỏi của người tiêu dùng.
 
Theo khảo sát, cùng với các hệ thống bán lẻ “thuần Việt” hàng đầu của SaigonCoop, Vincommerce… với tỷ lệ hàng Viet trên 90%, hiện nay không chỉ có Big C mà còn có hệ thống các nhà bán lẻ nước ngoài khác như AEON, Lotte…, tỉ lệ hàng Việt trong các hệ thống bán lẻ này vẫn nhiều hơn so với tỉ lệ hàng ngoại nhập.
 
Bên cạnh đó cũng phải nói rằng trong những năm gần đây, người tiêu dùng trong nước đã có ý thức rất cao trong việc dùng hàng nội địa theo tinh thần người Việt ưu tiên dùng hàng Việt. Song chỉ vậy thôi thì chưa đủ, còn cần phải có sự cộng hưởng từ phía các doanh nghiệp sản xuất trong nước, phải chuyển sang tư duy hoàn thiện hơn đó là hàng Việt Nam phải nâng cao hơn nữa về chất lượng, mẫu mã sản phẩm, giá thành hợp lý để từ đó chiếm trọn niềm tin của người tiêu dùng trong nước một cách thuyết phục và bền vững.
 
Ngoài ra, cũng cần phải nhìn nhận khách quan là trong những năm qua, siêu thị Big C và Central Group tại Việt Nam cũng đã có những hành động cụ thể trong việc hỗ trợ hàng hóa Việt Nam như là ưu tiên cho hàng hóa của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước có mặt trong các gian hàng của Big C, đặc biệt là trong đó có các doanh nghiệp may mặc, có chương trình hỗ trợ và giúp đỡ các nhà cung cấp nhỏ về đóng gói, bao bì, giới thiệu hàng hóa và tìm nguồn tài chính… tổ chức Tuần lễ hàng Việt hàng năm tại Thái Lan.
 
Phải đổi mới để hoàn thiện và phát triển
 
Hiện nay, Việt Nam đã ký kết các FTA thế hệ mới, trong đó có nhiều mặt hàng nhập khẩu sẽ đưa xuống mức thuế quan 0%. Điều này đồng nghĩa với việc thị trường Việt Nam sẽ có sự tham gia của hàng hóa nhiều nước và cạnh tranh khốc liệt hơn. Các nhà bán lẻ Việt Nam cần phải thay đổi để có thể đáp ứng được đòi hỏi mới của thị trường cũng như cạnh tranh hiệu quả với hệ thống bán lẻ của các doanh nghiệp nước ngoài.
 
bigc.jpg
Vụ siêu thị Big C vừa qua một lần nữa cho thấy, đã đến lúc các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam cần phải nâng cao năng lực, đổi mới mô hình, cách thức hoạt động của mình để phù hợp với tình hình mới.

 

Thực tế, vấn đề này chúng ta đã nhìn nhận, phân tích và dự báo cách đây khá lâu rồi, ngay khi Việt Nam vừa gia nhập WTO và đặc biệt càng được nói đến nhiều hơn sau khi ký kết các FTA thế hệ mới vừa qua.
 
Ở đây, chúng ta cần nhìn nhận ở ba khía cạnh. Thứ nhất, ở góc độ các doanh nghiệp bán lẻ của Việt Nam. Công bằng mà nói, đối với nhà bán lẻ thì quan điểm nhất quán vẫn là phải phục vụ người tiêu dùng, lấy người tiêu dùng là trọng tâm. Đối với các nhà bán lẻ Việt Nam, điều cần làm là phải nâng cao năng lực, đổi mới mô hình, cách thức hoạt động của mình để phù hợp với tình hình mới.
 
Hiện nay, doanh nghiệp bán lẻ trong nước có những khó khăn như quy mô nhỏ bé, phát triển sau, nguồn lực về tài chính hạn chế. Mặt khác, dù có những bước phát triển nhưng ngành bán lẻ Việt Nam vẫn còn rất nhiều vấn đề phải đối mặt như chất lượng nguồn nhân lực, tính chuyên nghiệp chưa cao, logistics cho bán lẻ vẫn yếu kém, chi phí cao cho hệ thống kho bãi, vận tải, làm giá hàng hóa tăng lên, ảnh hưởng tới sức cạnh tranh.
 
Ứng dụng khoa học và công nghệ của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam còn thấp, trong khi đây lại là thế mạnh của các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài. Do đó, chuyển đổi về mặt số (Digital Transformation) trong bán lẻ là một đòi hỏi cấp bách đối với các doanh nghiệp bán lẻ trong nước.
 
Thứ hai, đó là doanh nghiệp trong nước. Để hàng hóa Việt cạnh tranh thành công với hàng hóa nước ngoài thì không chỉ có sự nỗ lực của các doanh nghiệp bán lẻ, mà còn phải có sự cộng hưởng từ phía các doanh nghiệp sản xuất trong nước.
 
Các doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam cũng cần phải thay đổi tư duy, thay đổi cách thức, ứng dụng công nghệ hiện đại để sao cho chất lượng sản phẩm được nâng cao, giá thành hợp lý, mẫu mã đa dạng, tạo được niềm tin của người tiêu dùng nội địa. Hàng hóa tốt, hệ thống phân phối tốt thì chúng ta mới thành công được.
 
Thứ ba, đó là vấn đề cạnh tranh. Hiện nay, sau khi Việt Nam ký kết các FTA thế hệ mới, nhiều dự báo cho thấy hàng hóa của các doanh nghiệp nước ngoài sẽ tràn vào Việt Nam. Một thị trường 95 triệu dân với mức thuế quan nhiều mặt hàng về 0% chắc chắn có sức hấp dẫn với doanh nghiệp nước ngoài, song mức độ tràn vào của hàng hóa ngoại sẽ như thế nào thì còn do sự tính toán và cân nhắc của chính các doanh nghiệp nước ngoài, bởi không phải thị trường nào họ cũng sẵn sàng mạnh tay đầu tư.
 
Nhưng rõ ràng thời gian tới hàng Việt sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt với hàng ngoài, ở góc độ nào đó, đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp trong nước tự hoàn thiện mình, cải thiện chất lượng sản phẩm, mẫu mã, giá thành để từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh hơn.

Ý kiến của bạn
(*) Nội dung bắt buộc cần có
0 bình luận
Xem thêm bình luận

Nhập thông tin của bạn

Đọc thêm