pnvnonline@phunuvietnam.vn
Cụ thể hóa 3 chính sách trong Dự thảo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi)
Theo điều tra, cứ 3 phụ nữ thì có gần 1 người (32%) bị chồng bạo lực thể xác/hoặc bạo lực tình dục. Ảnh minh họa: KT
Tiếp tục chương trình làm việc phiên họp thứ 10 vào chiều 16/4, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến Dự án Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi).
Phát biểu tại phiên họp này, ông Nguyễn Văn Hùng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cho biết: Sau gần 15 năm thực hiện, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (BLGĐ) hiện hành đã tạo chuyển biến tích cực về nhận thức, góp phần bảo vệ người bị BLGĐ, xử lý các hành vi BLGĐ. BLGĐ vẫn còn là một vấn đề nhức nhối, nan giải ở Việt Nam. Nhiều vụ việc có mức độ gây hại nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, tinh vi, khó lường và khó xử lý bằng các quy định pháp luật hiện hành.
Theo kết quả điều tra quốc gia công bố năm 2020, cứ 3 phụ nữ thì có gần 1 người (32%) bị chồng bạo lực thể xác/hoặc bạo lực tình dục. Đáng chú ý, có 90,4% phụ nữ bị chồng bạo lực thể xác/hoặc tình dục không tìm kiếm sự giúp đỡ, chỉ có 4,8% tìm kiếm sự giúp đỡ của công an. Vấn nạn BLGĐ có xu hướng trầm trọng, đa dạng, phức tạp hơn đã và đang để lại những hậu quả nặng nề cho nhiều gia đình, gây ra những thiệt hại to lớn cho toàn xã hội.
Theo kết quả điều tra về BLGĐ năm 2019 do Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới thực hiện, có 69% trẻ em cho biết đã từng bị bố mẹ xử phạt bằng hình thức bạo lực;
Có 31,6% cha mẹ thừa nhận họ đã xử phạt con bằng hình thức trên.
Ngoài ra, trẻ em cũng là nhóm xã hội có nguy cơ cao bị xâm hại tình dục trong gia đình. Theo đó, trong số trẻ bị xâm hại tình dục có tới 21,3% bị chính người thân trong gia đình xâm hại.
Theo ông Nguyễn Văn Hùng, việc sửa đổi Luật này nhằm khắc phục những bất cập như: Biện pháp phòng ngừa, bảo vệ, hỗ trợ người bị BLGĐ còn chưa cụ thể, chưa bao quát, nhiều biện pháp còn nặng về thủ tục hành chính nên thiếu tính khả thi, đặc biệt là người cao tuổi, trẻ em, phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con nhỏ và những người khuyết tật trong gia đình…
Dự án Luật Phòng, chống BLGĐ (sửa đổi) tập trung vào cụ thể hóa 3 chính sách, cụ thể:
Chính sách 1: Các biện pháp phòng ngừa BLGĐ, tăng cường bảo vệ và hỗ trợ người bị BLGĐ. Trong đó kế thừa nguyên tắc lấy phòng ngừa là chính nhưng được bổ sung theo hướng chủ động hơn, liên tục trong cả quá trình trước, trong và khi kết thúc bạo lực để hướng đến mục tiêu là phòng ngừa bền vững. Trong đó, trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ và các thành viên yếu thế khác trong gia đình là đối tượng được ưu tiên bảo vệ, hỗ trợ. Đồng thời, việc phòng ngừa được thực hiện chủ động thông qua biện pháp phát hiện sớm, xử lý kịp thời vụ việc BLGĐ.
Chính sách 2: Cơ chế phối hợp và các điều kiện bảo đảm để thực hiện công tác phòng chống BLGĐ; trong đó, quy định rõ trách nhiệm phối hợp và cơ quan điều phối liên ngành trong PCBLGĐ và xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu để xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung phục vụ công tác quản lý, điều hành, xây dựng chính sách.
Cạnh đó, một điểm mới là dự thảo quy định Mô hình PCBLGĐ và đây là biện pháp tháo gỡ khó khăn về nguồn lực PCBLGĐ ở cộng đồng. Thông qua việc huy động các tổ chức, cá nhân ở cộng đồng dân cư cùng vào cuộc PCBLGĐ dưới sự điều phối, chỉ đạo của Ban chỉ đạo công tác gia đình ở cơ sở.
Chính sách 3: Khuyến khích xã hội hóa công tác PCBLGĐ. Trong đó tạo cơ sở pháp lý để huy động sự tham gia của toàn xã hội, đặc biệt là sự tham gia của các tổ chức xã hội và cá nhân trong cộng đồng dân cư. Chính sách này thể hiện ở các quy định về khuyến khích tham gia PCBLGĐ; tuyên dương, khen thưởng, hỗ trợ; tư vấn, hòa giải; báo tin, tố giác về BLGĐ; tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ sở trợ giúp PCBLGĐ…