pnvnonline@phunuvietnam.vn
Giữa dịch Covid-19, rơi nước mắt trước lời từ biệt của nữ y tá hy sinh trong đại dịch SARS cách đây 17 năm
Hy sinh khi gồng mình cứu người
Những ngày này người dân cả nước cũng như trên thế giới đang hối hả phòng dịch Covid-19. Căn bệnh này giúp nhiều người liên tưởng đến đại dịch SARS diễn ra cách đây 17 năm về trước. Đại dịch SARS đã cướp đi sinh mệnh của 6 bác sĩ Bệnh viện Việt Pháp trong đó có y tá Nguyễn Thị Lượng.
Câu chuyện về sự hy sinh của nữ y tá Lượng đã qua đi 17 năm, nhưng trong thời điểm bệnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp, những ký ức khi xưa lại hiện về trong tâm trí người thân và cả những người đồng nghiệp cùng thời với y tá Lượng.
Ngày 23/2/2003, ông Chong Cheng, người Mỹ gốc Hong Kong đến Việt Nam du lịch thì bị ốm, được lễ tân khách sạn đưa tới Bệnh viện Việt Pháp vào ngày 26/2 với các biểu hiện nhiễm trùng suy hô hấp như ho, sốt, khó thở và các triệu chứng nặng như long cơ khớp, suy hô hấp nặng.
Đầu tháng 3, bệnh nhân Cheng phải đặt ống thở hỗ trợ. Đáng nói, sau ca phẫu thuật này thì cả kíp bác sĩ, nhân viên y tế cùng thực hiện đều có biểu hiện nhiễm bệnh, thời điểm đó ghi nhận 17 nhân viên y tế của Bệnh viện Việt Pháp phát bệnh.
Ngày 10/3, BV Việt Pháp có cuộc trao đổi với các bác sĩ; Carlo Urbani (chuyên gia của Tổ chức Y tế thế giới tại Việt Nam chuyên về các bệnh truyền nhiễm đã đến thăm khám cho bệnh nhân Cheng), GS Trần Quỵ (thời điểm đó là Giám đốc BV Bạch Mai) bác sĩ Nguyễn Hồng Hà, bác sĩ Nguyễn Đức Hiền (thời điểm đó là Phó Giám đốc Viện Lâm sàng các bệnh nhiệt đới).
Tại cuộc họp này, bác sĩ Carlo Urbani đề nghị, WHO thông báo tình hình dịch bệnh cho Bộ Y tế Việt Nam để phối hợp chống dịch và cần phải cảnh báo quốc tế. Ngay sau đó, một bản báo cáo đã được gửi đến Bộ Y tế cùng những kiến nghị để phòng, chống dịch.
Ngày 12/3 Bộ Y tế đã ngay lập tức đáp ứng và thành lập Ban chỉ đạo chống dịch, ngày 13/3 Ban chỉ đạo ra thông báo cho người dân đã từng tiếp xúc với bệnh nhân hoặc từng đến BV Việt Pháp thì đến khám sàng lọc.
Ngày 14/3, Viện Y học Lâm sàng các bệnh nhiệt đới tiếp nhận bệnh nhân đầu tiên là nữ nhân viên lễ tân khách sạn tên Phương nơi ông Cheng cư trú. Một tuần sau, Viện đã tiếp nhận trên 10 ca vào điều trị.
Ngày 15/3, bệnh nhân Cheng tử vong (tại Hong Kong). Ngày 18/3 y tá Nguyễn Thị Lượng, một trong những y tá trực tiếp chăm sóc ông Chen tử vong. Ngày 20/3, bác sĩ người Pháp Jean Paul Derosier (người thực hiện phẫu thuật đặt ống thở cho ông Cheng) tử vong khiến nhiều y bác sĩ trong Viện có tâm lý hoang mang, lo sợ.
"Thời điểm nằm viện, bệnh nhân Cheng ho dữ dội lắm, ho 45 phút liên tục không ngớt. Chị Lượng trực tiếp chăm sóc, có thời điểm đi đổ 1 bô cả đờm lẫn máu. Sau ca trực ngày hôm đó, chị Lượng về nhà và bắt đầu mệt mỏi. Đến khi nhập viện điều trị, những ngày đầu tiên vẫn tỉnh táo, nói chuyện với những người cùng phòng bệnh, thậm chí còn tự chăm sóc cho nhau. Vài ngày sau đó, chị Lượng mệt rồi hôn mê. Từ khi hôn mê đến khi mất chỉ có 4 ngày. Trước khi hôn mê chị ấy chỉ kịp dặn chồng đúng một câu", đồng nghiệp y tá Lượng nhớ lại.
"Tôi chẳng nghĩ gì đến chuyện sống chết mà chỉ nghĩ đến tình nghĩa vợ chồng"
Ngồi trong căn nhà nhỏ ở khu tập thể đường sắt, phường Khâm Thiên, quận Đống Đa, Hà Nội, ông Nguyễn Thế Vĩnh (70 tuổi, chồng y tá Lượng) lật dở lại những ký ức về người vợ quá cố của mình. Suốt bao năm qua, ông vẫn lưu giữ những hình ảnh hai vợ chồng, coi đó như kỷ vật vô giá và nhắc mình sẽ không bao giờ quên ngày mà vợ ông là y tá Lượng chút hơi thở cuối cùng.
Ông nói rằng, dịch bệnh nào cũng nguy hiểm và đáng sợ, nhưng với ông dịch SARS năm 2003 là đáng sợ nhất, nó đã cướp đi người vợ hiền và hạnh phúc gia đình bao năm vun đắp. Trong suốt cuộc trò chuyện với chúng tôi, ông Vĩnh liên tục lau nước mắt, dù thời gian đã 17 năm trôi qua nhưng trong tâm trí ông, chuyện như vừa diễn ra ngày hôm qua.
"Ngày đó, cả bệnh viện nơi vợ tôi làm việc bị phong tỏa toàn bộ. Ai đi qua phố Phương Mai cũng sợ, người thân những người bệnh cũng không dám vào thăm. Ở đó chỉ có tôi là người duy nhất vào thăm vợ, lúc đó tôi chẳng nghĩ gì đến chuyện sống chết mà chỉ nghĩ đến tình nghĩa vợ chồng."
Ông Nguyễn Thế Vĩnh
Cho đến bây giờ, ông Vĩnh không thể tin vợ mình ra đi nhanh đến vậy. Ông vẫn còn nhớ ngày 25/2, sau ca trực về, vợ ông mệt mỏi, sốt và ông phải đấm bóp, xông lá cây cho vợ vì nghĩ vợ bị cảm cúm thông thường. Khi đưa vợ vào viện, ông Vĩnh vẫn nghĩ vợ chỉ ốm sốt thông thường nhưng cứ ở lại viện theo dõi cho chắc chắn.
Những ngày sau đó, ông vẫn vào thăm vợ thường xuyên. Kỷ niệm mà ông nhớ nhất là lần tặng hoa cho vợ ở trên giường bệnh. "Hôm đó là ngày 8/3, tôi cùng con gái mua hoa vào tặng vợ. Khi đó, vợ tôi vẫn còn tỉnh và nói chuyện bình thường, vẫn nói hai bố con yên tâm. Thấy vợ như vậy, tôi cũng chẳng nghĩ gì và nghĩ rằng chắc ốm vài hôm là khỏi. Vậy mà, đó lại là lần cuối cùng tôi tặng hoa cho vợ", ông Vĩnh kể lại.
Sau lần tặng hoa đó, vợ ông Vĩnh ngày càng nặng thêm. Rồi đến một buổi chiều giữa tháng 3, bệnh viện thông báo gia đình chuẩn bị sẵn tinh thần. Quá nóng ruột, ông vào viện xin đến gặp vợ bằng được, khi lên gặp vợ ông chỉ kịp vuốt lên khuôn mặt của người vợ mà ông hết mực yêu thương. Kể từ giây phút đó, hai người âm dương chia lìa.
"Trước khi rơi vào hôn mê, tôi và con gái có vào thăm vợ, khi cả nhà nói chuyện với nhau được khoảng 5 phút, vợ tôi nói con ra ngoài vì ở lâu trong phòng bệnh không tốt. Tôi nán lại với vợ thêm vài phút, khi đó vợ tôi nói: "Anh cố gắng nuôi dạy con nên người nhé!", sau đó vợ tôi lịm dần đi. Đó cũng là câu nói cuối cùng tôi nghe được từ vợ", ông Vĩnh không ngăn được nước mắt khi nhớ lại.
Giữ đúng lời hứa với vợ
Từ khi vợ qua đời, ông Vĩnh một mình gà trống nuôi con khôn lớn, trưởng thành. Ông tâm sự, có lúc tưởng chừng không thể vượt qua nhưng nhìn thấy con côi cút, nhớ đến câu nói cuối cùng của vợ, ông phải cố gắng để vượt qua nỗi đau và mất mát.
Mất vợ đột ngột với ông Vĩnh là điều đau xót vô cùng, cũng chính vì thế mà những năm đầu gia đình ông gặp muôn vàn khó khăn. Bởi khi vợ còn sống, ông Vĩnh chỉ lo kinh tế gia đình, còn việc học hành của con, sinh hoạt trong nhà một tay vợ ông lo liệu hết.
Ngày vợ mất, con gái mới 13 tuổi, ông Vĩnh buồn chán, hụt hẫng và mất phương hướng trong cuộc sống. Nhưng rồi hàng đêm nằm suy nghĩ, câu nói cuối cùng của vợ luôn văng vẳng bên tai, thúc giục ông phải vươn lên nuôi con nên người.
Hàng ngày ông dậy từ sớm chuẩn bị từng bữa ăn sáng cho con rồi đưa con đến trường, sau đó mới yên tâm đi làm. Cảnh già trống nuôi con mãi rồi thành quen, kể cả khi con gái đã trưởng thành nhưng trong suy nghĩ ông Vĩnh cũng chưa bao giờ có ý định đi thêm bước nữa.
"Trước đây khi vợ tôi còn sống, hàng ngày tôi vẫn là quần áo cho vợ, cho con. Nếu tôi mà đi bước nữa, con tôi chưa chắc đã có ngày hôm nay. Đó cũng là cách giáo dục con tôi về lẽ sống", ông Vĩnh nói.
Con gái ông Vĩnh năm nay đã 30 tuổi và lập gia đình nhưng vẫn ở cùng để thay mẹ chăm sóc bố khi về già. Trong mắt ông Vĩnh, con gái là một người nghị lực và tự lập, cá tính. Từ khi mẹ mất, con gái ông không than thở, đòi hỏi, không nhắc đến chuyện cũ vì sợ bố buồn. Đó là niềm an ủi lớn nhất với ông Vĩnh cho đến thời điểm này.
"Nếu năm đó tôi mất thay vợ… thì con tôi cũng đỡ vất vả".
Ông Nguyễn Thế Vĩnh
Những lúc nhớ vợ, ông Vĩnh lại cầm những tấm ảnh kỷ niệm của hai vợ chồng khi còn ở bên nhau để hồi tưởng về một thời hạnh phúc. Ông nâng niu, ngắm nhìn từng tấm ảnh, rồi cả những bộ trang sức của vợ khi xưa. Nỗi đau mất vợ đã trôi qua 17 năm nhưng mỗi khi gợi nhớ lại, ông Vĩnh không thể kìm được nước mắt.